Việc ký hợp đồng chuyển giao bí mật kinh doanh là việc thỏa thuận của hai công ty thì không bắt buộc mình phải thông báo hay đăng ký gì với cơ quan nhà nước cả.
Nếu như có phát sinh tranh chấp sau khi chuyển giao thì căn cứ vào nội dung thỏa thuận trong hợp đồng để giải quyết tranh chấp thôi.
Đồng thời, tại Điều 84, 85 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định các điều kiện để bí mật kinh doanh được bảo hộ:
"Điều 84. Điều kiện chung đối với bí mật kinh doanh được bảo hộ
Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1. Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;
2. Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó;
3. Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Điều 85. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh
Các thông tin bí mật sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh:
1. Bí mật về nhân thân;
2. Bí mật về quản lý nhà nước;
3. Bí mật về quốc phòng, an ninh;
4. Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh."
Cho nên nếu mình muốn bảo hộ bí mật kinh doanh thì mình đăng ký bảo hộ chứ không phải mình xem đó là bí mật kinh doanh thì mặc định mình sẽ được bảo hộ