Chào anh, vấn đề mà anh hỏi có thể tham khảo ý kiến sau đây:
Trước tiên, theo quy định của Bộ Luật Dân sự 2015 hiện hành thì trường hợp cha/mẹ đã ly hôn mà mất để lại di chúc thì khối di sản thừa kế đó sẽ được chia theo nguyện vọng của người mất để lại (trừ trường hợp chia di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc).
Còn trường hợp không có di chúc như của anh hoặc di chúc không hợp pháp thì khối di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật hiện hành.
Mà theo như hàng thừa kế tuy rằng cha mẹ đã ly hôn nhưng con cái vẫn thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015. Thế nên, anh và những người con còn lại vẫn được hưởng thừa kế di sản bằng nhau khi chia khối di sản đó theo pháp luật.
Còn về trường hợp của người con út như anh có nêu thì tại Điều 613 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về người thừa kế như sau:
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 68 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về tuyên bố mất tích như sau:
1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn 02 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
…
Thêm nữa, tại điểm a khoản 1 Điều 71 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về tuyên bố đã chết như sau:
“1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong trường hợp sau đây:
a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
…”
Từ những quy định nêu trên, có thể thấy, một người bị Tòa án tuyên bố mất tích vẫn được xác định là còn sống cho tới khi bị Tòa án tuyên bố đã chết sau 03 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực.
Mà theo như thông tin mà anh cung cấp thì cha anh mất từ khoảng 2018 và người con út mới chỉ mất liên lạc trong khoảng 01 năm trở lại đây, tức hiện tại chưa đủ điều kiện để tuyên người này mất tích hoặc đã chết theo quy định pháp luật.
Theo đó, người này vẫn thuộc hàng thừa kế thứ nhất và vẫn có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật của cha anh để lại.