Tình huống phát sinh liên quan việc quyết toán thuế TNCN khi lao động có hai nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công. Mỗi bên đều tiến hành khấu trừ thuế TNCN. Hiện có một bên cấp chứng từ khấu trừ thuế 10% rồi, còn một bên thì báo không cấp chứng từ khấu trừ thuế. Vậy việc cấp như thế nào là đúng?
Phương pháp khấu trừ thuế TNCN với lao động cư trú tại Việt Nam
Đối với nội dung này, tại Điểm b Khoản 1 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC Hướng dẫn về thuế thu nhập cá nhân do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành có đề cập việc khấu trừ thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công theo các nguyên tắc chung như sau (không bao gồm tiền bao hiểm doanh nghiệp mua cho lao động):
- Đối với cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần, kể cả trường hợp cá nhân ký hợp đồng từ ba (03) tháng trở lên tại nhiều nơi.
- Đối với cá nhân cư trú ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên nhưng nghỉ làm trước khi kết thúc hợp đồng lao động thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập vẫn thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần.
- Đối với cá nhân là người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân trả thu nhập căn cứ vào thời gian làm việc tại Việt Nam của người nộp thuế ghi trên Hợp đồng hoặc văn bản cử sang làm việc tại Việt Nam để tạm khấu trừ thuế theo Biểu lũy tiến từng phần (đối với cá nhân có thời gian làm việc tại Việt Nam từ 183 ngày trong năm tính thuế) hoặc theo Biểu thuế toàn phần (đối với cá nhân có thời gian làm việc tại Việt Nam dưới 183 ngày trong năm tính thuế).
- Số thuế phải khấu trừ đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân cư trú được xác định theo hướng dẫn tại Điều 7 Thông tư này; của cá nhân không cư trú được xác định theo Điều 18 Thông tư này.
Theo đó, về nguyên tắc thông thường thì các lao động giao kết hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên sẽ thực hiện khấu trừ thuế theo Biểu thuế lũy tiến từng phần. Còn đối với trường hợp đặc thù khi trả tiền công, tiền thù lao, tiền chi khác cho cá nhân cư trú không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng có tổng mức trả thu nhập từ hai triệu (2.000.000) đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế theo mức 10% trên thu nhập trước khi trả cho cá nhân (trừ trường hợp có làm cam kết).
Cấp chứng từ khấu trừ thuế TNCN sau khi hoàn thành việc
Liên quan nội dung này, tại Điểm a Khoản 2 Điều 25 Thông tư 111/2013/TT-BTC nêu rõ rằng tổ chức, cá nhân trả các khoản thu nhập đã khấu trừ thuế theo hướng dẫn tại khoản 1 nêu ở trên sẽ phải cấp chứng từ khấu trừ thuế theo yêu cầu của cá nhân bị khấu trừ. Trường hợp cá nhân ủy quyền quyết toán thuế thì không cấp chứng từ khấu trừ.
Việc cấp chứng từ khấu trừ trong một số trường hợp cụ thể như sau:
- Đối với cá nhân không ký hợp đồng lao động hoặc ký hợp đồng lao động dưới ba (03) tháng: cá nhân có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân trả thu nhập cấp chứng từ khấu trừ cho mỗi lần khấu trừ thuế hoặc cấp một chứng từ khấu trừ cho nhiều lần khấu trừ thuế trong một kỳ tính thuế.
- Đối với cá nhân ký hợp đồng lao động từ ba (03) tháng trở lên: tổ chức, cá nhân trả thu nhập chỉ cấp cho cá nhân một chứng từ khấu trừ trong một kỳ tính thuế.
Căn cứ theo các quy định trên, có thể thấy rằng công ty thứ hai chỉ không cung cấp chứng từ khấu trừ khi cá nhân ủy quyền cho công ty đó quyết toán thuế TNCN. Còn nếu không ủy quyền mà tự quyết toán thì việc yêu cầu cung cấp chứng từ là đúng. Công ty đã khấu trừ thuế lúc này có nghĩa vụ phải cung cấp chứng từ theo yêu cầu của cá nhân lao động có thu nhập bị khấu trừ.