Chào bạn, BaoTran7777, luatsungothethem
Xin được góp ngu ý để giúp bạn có cái nhìn đúng đắn hơn về CĂN CỨ CỦA HỢP ĐỒNG và tóm lược như sau:
Về nguyên tắc, Hợp đồng là một giao dịch dân sự và tùy các loại hợp đồng khác nhau mà chịu điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành trên nguyên tắc chung về hợp đồng quy định ở BLDS
Ví dụ cho bạn dễ hiểu, trong hoạt động đầu tư xây dựng bạn tiến hành ký kết một hợp đồng mua - bán một thiết bị nào đó, khi đó việc mua bán này “có vẻ” như sẽ chịu điều chỉnh bởi LUẬT THƯƠNG MAI hoặc LUẬT XÂY DỰNG vì cả hai đều có các chế định về HỢP ĐỒNG liên quan đến mua bán này. Vậy bạn chọn Luật nào để làm căn cứ? hay không cần? chế tài cho việc không ghi phần căn cứ vào hợp đồng? tại sao lại phản chọn Luật xây dựng để áp dụng, khác nhau như thế nào, thuận lợi hay khó khăn hơn khi chọn Luật Thương mại?
Xin trả lời bạn ngay là phần căn cứ hợp đồng là rất cần thiết, việc xác định này giúp cho bản thân bạn xác định được quyền, nghĩa vụ và các quy định liên quan để áp dụng vào c ác điều khoản vềhợp đồng. Nếu xác định không đúng căn cứ dẫn đến áp dụng sai các điều khoản, đến khi xảy ra tranh chấp bạn và đối tác sẽ mất định quyền định đoạt hợp đồng của mình (mà sẽ do Tòa án, Trọng tài) và các điều khoản này có thể vô hiệu hay bất hiệu… Việc này có thể gây bất lợi cho chính bản thân bạn.
Nếu bạn là dân làm hợp đồng trong đầu tư xây dựng thì rõ ràng bạn nên biết nó (căn cứ hợp đồng) được quy định tại điều 141 Luật XD 2014; điều 9, NĐ 37/2015; cụ thể hơn nữa bạn tham khảo thông tư 08 và 09/TT-BXD năm 2016 sẽ thấy rõ điều này.
Tóm lại, phần căn cứ pháp lý là phần khung, phần cơ sở để làm căn cứ cho cả hai bên cùng thực hiện, tuân thủ. Theo thông lệ các hợp đồng ở VN hiện nay phần này gồm 2 phần: phần căn cứ chung (theo quy định của pháp luật) và phần riêng (để làm rõ, chứng minh tư cách của các bên để phát sinh, thực hiện hợp đồng). Xin nhắc lại với bạn là Phần căn cứ hợp đồng là cần thiết và bạn nên đưa vào hợp đồng, điều này chính là đang bảo vệ chính bạn trong quan hệ hợp đồng.
Thân chào.