II- Các phương pháp phân loại thời phong kiến:
Nếu như việc không đưa ra các định nghĩa rõ ràng về tội phạm là một hạn chế đối
với cổ luật thì các nhà làm luật phong kiến lại rất tiến bộ trong việc đặt ra
các phương pháp phân loại tội phạm. Pháp luật phong kiến đã đưa ra rất nhiều
quan điểm phân loại tội phạm và có nhiều quan điểm phân loại tội phạm đó còn
được lưu giữ và áp dụng đến ngày nay: Phân loại tội phạm dựa theo ý chí
người phạm tội; Phân loại tội phạm theo nhóm tội thập ác và ngoài thập ác; Phân
loại tội phạm dựa theo loại hình phạt; Phân loại tội phạm dựa vào khách thể của
tội phạm; Phân loại tội phạm theo giai đoạn thực hiện tội phạm; Phân loại tội
phạm đồng phạm.
1) Phân loại tội phạm dựa theo ý chí người phạm tội:
Phân biệt tội phạm dựa theo ý chí của người phạm tội nói đơn giản là sự phân
biệt giữa vô ý phạm tội và cố ý phạm tội. Ngay từ thời Lê, trong bộ luật Hồng
Đức đã có những qui định thể hiện điều này, cụ thể trong Điều 47: " Những
người phạm tội, tuy tên gọi tội giống nhau, nhưng phải phân biệt sự phạm tội vì
lầm lỡ hay cố ý ..., không nên câu nệ để hợp với ý nghĩa xét xử hình án "
Tha người lầm lỡ không kể tội nặng, bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ "".
Qui định này tuy còn rất chung chung nhưng đã thể hiện được quan niệm của nhà
làm luật thời Lê. Đến thời nhà Nguyễn, quan điểm này đã được thể hiện rõ nét
hơn khi được qui định rõ ràng trong các điều luật. Ví dụ như các điều luật về
tội giết ngừơi thuộc tình tiết giảm nhẹ: Ngộ sát, lầm lẫn xử trượng, đồ, lưu
(điều 262); Chồng giết chết gian phu, gian phụ miễn tội (điều 254)...
2) Phân loại tội phạm theo nhóm tội thập ác và ngoài thập ác
Do ảnh hưởng từ luật pháp nhà Đường, tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam
đều tiến hành phân chia tội phạm ra thành hai nhóm là nhóm tội thập ác và nhóm
tội ngoài thập ác:
-Tội thập ác là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã
hội của Nho giáo. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà làm luật phong kiến, thập ác
là những trọng tội nguy hiểm nhất, và luôn đi kèm với đó là những hình phạt
nghiêm khắc và tàn bạo nhất: " Những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại
nghịch thì xử tội chém bêu đầu, kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều phải
tội chém, vợ con điền sản đều bị tịch thu làm của công... " [ Điều 411
Quốc triều hình luật ]. Do đặc điểm này mà pháp luật phong kiến quy định các
tội thập ác không được hưởng nghị giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc
tội bằng tiền, không được hưởng chế độ đặc xá, đại xá...
Thập ác bao gồm:
1. Mưu phản: lật đổ nền cai trị của nhà vua, làm xụp đổ xã tắc.
2. Mưu đại nghịch: phá đền đài, lăng tẩm, cung điện của nhà vua.
3. Mưu bạn: phản bội Tổ quốc theo giặc.
4. Ác nghịch: mưu giết hay đánh ông bà, cha mẹ, tôn thuộc.
5. Bất đạo: vô cớ giết nhiều người, cắt tay chân người sống, chế thuốc độc bùa
mê, tàn ác, hung bạo...
6. Đại bất kính: lấy trộm các đồ tế trong lăng tẩm, các vật dụng của vua, làm
giả ấn vua...
7. Bất hiếu: cáo giác hay chửi rủa ông bà, bố mẹ hay ông bà, bố mẹ chồng. Không
phụng dưỡng bố mẹ, tự ý bỏ nhà, tự ý phân chia tài sản, cưới xin khi có tang
cha mẹ, vui chơi trong khi tang chế, được tin bố mẹ, ông bà chết không chịu
tang hoặc phát tang giả dối.
8. Bất mục: mưu giết hay bán các thân thuộc (cho đến ngũ đại), đánh hoặc cáo
giác chồng hay các tôn thuộc (cho đến tam đại).
9. Bất nghĩa:dân giết quan lại sở tại, lính tốt giết quan chỉ huy, học trò giết
thầy dạy, vợ không để tang chồng, ăn chơi và tái giá.
10. Nội loạn: tức là tội loạn luân (thông dâm với thân thuộc hay với các thiếp
của bố hay của ông). - Nhóm tội phạm ngoài thập ác cũng rất phong phú và đa
dạng, được chia thành nhiều nhóm khác nhau tuỳ theo khách thể bị hành vi tội
phạm tác động. Đó có thể là những tội xâm phạm an toàn của nhà vua; tới trật tự
công cộng, trật tự quản lý hành chính...; tới tính mạng, sức khoẻ, nhân thân
của con người; tới an ninh quốc gia, trật tự chế độ xã hội phong kiến; tới chế
độ sở hữu; tới chế độ hôn nhân - gia đình phong kiến; tới hoạt động tư pháp
hoặc các tội phạm quân sự... ( theo QTHL). Đó cũng có thể là những tội đạo tặc
(trộm cướp), nhân mạng (giết người), đấu ẩu (đánh nhau), lăng mạ (chửi mắng),
trá ngụy (man trá, giả mạo), phạm gian (gian dâm), tạp phạm (nhóm tội chuộc
bằng tiền), tội phạm về quan chức, về dân sự, hôn nhân - gia đình... ( theo
HVLL).
3) Phân loại tội phạm dựa theo loại hình phạt:
Hệ thống các hình phạt ngũ hình cũng là một trong những yếu tố Trung Hoa trong
hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam.Nhằm đề cao tính răn đe, ngũ hình được
qui định ở ngay điều 1 của cả hai bộ luật QTHL và HVLL. Nhóm hình phạt này luôn
là nhóm hình phạt chính trong hệ thống pháp luật của các triều đại phong kiến.
Chính vì vậy, các nhà làm luật phong kiến đã dựa vào nhóm hình phạt này để phân
loại tội phạm. Nhóm tội phạm ngũ hình gồm có 5 loại là : Xuy; Trượng; Đồ; Lưu;
Tử.
- Xuy hình là hình phạt đánh bằng roi, thường áp dụng đối với các loại tội nhẹ
như đấu ẩu, lăng mạ... Cốt để phạm nhân xấu hổ.
-Trượng hình là hình phạt đánh bằng trượng, nặng hơn xuy áp dụng với các tội
như đấu ẩu, nhận hối lộ...
- Đồ hình là hình phạt bắt làm tù khổ sai, áp dụng với các tội tương đối nặng
như hối lộ, trộm cắp...
-Lưu hình là hình phạt bắt đi lưu đày, tội nặng thì đi xa, tội nhẹ thì đi gần.
Các tội phạm áp dụng hình phạt lưu thường là ở mức cao nhất của các tội hối lộ,
trộm cắp...
-Tử hình là hình phạt nặng nhất thường là chém hoặc treo cổ. Loại hình phạt này
thường xuyên áp dụng đối với nhóm tội thập ác.
Ngoài ra đối với một số loại tội phạm pháp luật phong kiến còn cho phép một số
quan lại chuộc tội bằng tiền do đó còn có thể chia tội phạm thành hai nhóm là nhóm
tội phạm chuộc được bằng tiền và nhóm tội phạm không thể chuộc được bằng
tiền.Ví dụ như trong điều 6- QTHL:" Những người họ hoàng hậu nếu bị ghép
vào tội trượng, tội thích chữ vào mặt thì được phép chuộc bằng tiền" hoặc
nhóm tội Tạp phạm được qui định ở luật Gia Long.
4) Phân loại tội phạm theo giai đoạn thực hiện tội phạm:
Căn cứ theo các giai đoạn thực hiện tội phạm, cổ luật chia thành nhiều giai
đoạn khác nhau, như: đã hành động, chưa hành động, đã thành, chưa thành... Đặc
biệt, cổ luật còn quy định tội phạm cho các hành vi mới xuất hiện trên phương
diện là mưu đồ hoặc là có nguy cơ cao, nhằm ngăn ngừa hậu quả thiệt hại gây ra
cho xã hội, nhưng đặc biệt vẫn là để ngăn chặn các hành vi nguy hại tới vương
quyền của nhà vua, như bộ Quốc triều hình luật có quy định: "những người
vào trong cung điện làm việc hết giờ mà không ra khỏi khu vực ngoại điện thì xử
tội lưu, ở trong cung bị xử tội giảo, ở lại nơi vua nằm thì xử tội chém"
(Điều 55). Ngoài ra, các tội phạm về mưu đồ cũng được qui định rõ ở từng điều
lệ trong bộ HVLl như ở tội Nhân Mạng chia làm 3 hạng mưu sát nhân đã thực hiện
nhưng chưa thành, không gây thương tích; đã làm bị thương hoặc đã thành. Tùy
theo giai đoạn mà mức hình phạt khác nhau. Đối với một số trọng tội ( nhóm tội
nguy hại đến vương quyền như mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn) dù chưa có hành
vi phạm tội chỉ là âm mưu phạm tội cũng được coi là tội phạm và là tội phạm đã
hoàn thành.
5) Phân loại tội phạm đồng phạm:
Điều 469- QTHL: " đồng mưu đánh người bị thương, thì kẻ nào đánh nhiều đòn
nặng là thủ phạm, kẻ chủ mưu cũng phải cùng một tội,còn người tòng phạm thì
được giảm một bậc.
Như vậy pháp luật thời Lê đã có những qui định về phạm tội đồng phạm nhưng lại
không có những định nghĩa rõ ràng về đồng phạm và những người đồng phạm. Đến triều
Nguyễn, những qui định về đồng phạm cũng đã rõ ràng hơn. Nhà làm luật đã đưa ra
các khái niệm:
- Đồng phạm là cùng phạm tội gồm chính phạm và tòng phạm. Chính phạm xử nặng
hơn tòng phạm một bậc.
- Chính phạm là kẻ chủ mưu, tác giả tinh thần, ý đồ, tạo ý, đầu nậu, khởi xướng
.
- Tòng phạm là những người tham gia, thừa hành, hành động hoặc không hành động
chia của, che giấu, xúi giục, giúp đỡ hoặc là cùng thực hiện ( Điều 29- HVLL)
Các tội phạm về đồng phạm cũng được qui định rõ trong các điều luật cụ thể về
tội phạm: Ví dụ như tội Nhân Mạng (giết người) hạng nhẹ nhất là " thực
hiện chưa thành , không gây thương tích , chủ mưu xử 100 trượng đồ 3 năm, a
tùng cùng mưu xử 100 trượng."
6) Phân loại tội phạm dựa vào khách thể của tội phạm:
Khách thể của quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội bị hành vi xâm hại. Việc
căn cứ theo khách thể của tội phạm để phân loại này có tử thời Nguyễn, bộ Hoàng
Việt luật lệ chia tội phạm ra thành 6 nhóm, tương ứng với 6 quyển trong bộ
luật:lại luật gồm 27 điều (quyển 4 - 5); hộ luật gồm 66 điều (quyển 6, 7, 8);
lễ luật gồm 26 điều (quyển 9); binh luật gồm 58 điều(quyển 10 và 11); hình luật
gồm 166 điều (quyển 12 - 20); công luật gồm 10 điều (quyển 21). Cách phân loại
này còn được thể hiện gián tiếp thông qua các chế định về Tội thập ác và tội
ngoài thập ác, khách thể trong mối quan hệ này chính là nguyên tắc Tam Cương
của Nho giáo
( Tam Cương là ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội phong kiến: Quân thần (vua
tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
+ Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành
một dạ.
+ Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng
phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
+ Phu thê: Trong quan hệ chồng vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ, vợ
vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng).
Nhưng em ko biết được ý nghĩa của việc phân loại tội phạm.Mong luật sư giải thích cho em.Em chân thành cảm ơn !