Bồi thường án oan sai

Chủ đề   RSS   
  • #523702 24/07/2019

    Bồi thường án oan sai

    1. Theo hồ sơ của các cơ quan tố tụng, trong thời gian làm thủ quỹ của UBND xã B từ ngày 1/5/2009 đến ngày 22/6/2011, bà N bị quy kết đã lợi dụng sự buông lỏng trong quản lý tài chính của UBND B để chiếm đoạt số tiền của ngân sách xã hơn 16 triệu đồng.

    Bà N bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M khởi tố vào ngày 8/10/2012.

    Sau đó, ngày 18/9/2013 TAND huyện M xét xử sơ thẩm và tuyên bà Nphạm tội Tham ô tài sản và kết án 2 năm tù giam. Tiếp đó, ngày 2/1/2014 TAND tỉnh Bxét xử phúc thẩm và hủy án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại.Ngày 4/9/2014 phiên tòa sơ thẩm lần 2 của TAND huyện Mtiếp tục tuyên bà N 2 năm từ giam.

    Tuy nhiên, phiên tòa phúc thẩm sau đó đã hủy án, tiếp tục trả hồ sơ điều tra lại. Đến ngày 16/6/2016, Viện KSND huyện M đã ra quyết định đình chỉ vụ án với bà N vì kết quả điều tra lại thì hành vi của N không cấu thành tội tham ô tài sản.Bà N hiện nay đã được bố trí công việc trở lại.

    Bà yêu cầu cơ quan gây oan sai bồi thường gần 190 triệu đồng. Hỏi: Yêu cầu này có phù hợp không?Xác định các khoản bồi thường bà N được nhận?

     

     
    1380 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn huynhviettri vì bài viết hữu ích
    ThanhLongLS (24/07/2019)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #524755   31/07/2019

    minhtam130496
    minhtam130496

    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:01/04/2019
    Tổng số bài viết (81)
    Số điểm: 820
    Cảm ơn: 4
    Được cảm ơn 25 lần


    huynhviettri viết:

    1. Theo hồ sơ của các cơ quan tố tụng, trong thời gian làm thủ quỹ của UBND xã B từ ngày 1/5/2009 đến ngày 22/6/2011, bà N bị quy kết đã lợi dụng sự buông lỏng trong quản lý tài chính của UBND B để chiếm đoạt số tiền của ngân sách xã hơn 16 triệu đồng.

    Bà N bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M khởi tố vào ngày 8/10/2012.

    Sau đó, ngày 18/9/2013 TAND huyện M xét xử sơ thẩm và tuyên bà Nphạm tội Tham ô tài sản và kết án 2 năm tù giam. Tiếp đó, ngày 2/1/2014 TAND tỉnh Bxét xử phúc thẩm và hủy án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại.Ngày 4/9/2014 phiên tòa sơ thẩm lần 2 của TAND huyện Mtiếp tục tuyên bà N 2 năm từ giam.

    Tuy nhiên, phiên tòa phúc thẩm sau đó đã hủy án, tiếp tục trả hồ sơ điều tra lại. Đến ngày 16/6/2016, Viện KSND huyện M đã ra quyết định đình chỉ vụ án với bà N vì kết quả điều tra lại thì hành vi của N không cấu thành tội tham ô tài sản.Bà N hiện nay đã được bố trí công việc trở lại.

    Bà yêu cầu cơ quan gây oan sai bồi thường gần 190 triệu đồng. Hỏi: Yêu cầu này có phù hợp không?Xác định các khoản bồi thường bà N được nhận?

     

    Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

    Theo quy định tại Điều 5. Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại 2017 như sau:

    Những người sau đây có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường:

    1. Người bị thiệt hại;

    2. Người thừa kế của người bị thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại chết; tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của tổ chức bị thiệt hại đã chấm dứt tồn tại;

    3. Người đại diện theo pháp luật của người bị thiệt hại thuộc trường hợp phải có người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật Dân sự;

    4. Cá nhân, pháp nhân được những người quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này ủy quyền thực hiện quyền yêu cầu bồi thường.

    Như vậy, theo quy định trên thì bà N có đủ điều kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại.

    Mức bồi thương thiệt hại không có quy định cụ thể mà chỉ  căn cứ vào từng vụ án với tính chất, mức độ khác nhau để xác định mức bồi thường phù hợp. Pháp luật luôn tôn trọng sự thỏa thuận và thương lượng.

    Đối với các vụ án oan sai, các thiệt hại được xác định bao gồm:

    Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.

    Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

    Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết.

    Thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm.

    Thiệt hại về tinh thần.

    Các chi phí khác được bồi thường.

    Theo đó, nội dung thương lượng việc bồi thường thiệt hại bao gồm:

    Các loại thiệt hại được bồi thường; 

    Số tiền bồi thường;

    Khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp khác (nếu có);

    Phương thức chi trả tiền bồi thường;

    Các nội dung khác có liên quan đến việc giải quyết yêu cầu bồi thường.

     

     
    Báo quản trị |  
  • #524820   31/07/2019

    Có quy định nào về khung bồi thường án oan sai hay không ạ? Dựa vào các yếu tố nào để xác định số tiền được bồi thường nếu bị kết oán oan sai ạ? 

     
    Báo quản trị |  
  • #524844   31/07/2019

    minhtam130496
    minhtam130496

    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:01/04/2019
    Tổng số bài viết (81)
    Số điểm: 820
    Cảm ơn: 4
    Được cảm ơn 25 lần


    thuytien317 viết:

    Có quy định nào về khung bồi thường án oan sai hay không ạ? Dựa vào các yếu tố nào để xác định số tiền được bồi thường nếu bị kết oán oan sai ạ? 

    Đối với các vụ án oan sai, các thiệt hại được xác định bao gồm:

    Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm.

    Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

    Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết.

    Thiệt hại về vật chất do sức khỏe bị xâm phạm.

    Thiệt hại về tinh thần.

    Các chi phí khác được bồi thường.

    Mức bồi thường dựa vào các yếu tố trên để làm cơ sở quy đổi ra tiền. Tuy nhiên vẫn chưa có quy định cụ thể nào về mức tiền bồi thường. Đa số những vụ án này được giải quyết bằng cách thỏa thuận hoặc thượng lượng.

     
    Báo quản trị |  
  • #524848   31/07/2019

    Điều đó đồng nghĩa với việc sẽ không có khung trần về số tiền tối đa đúng không admin? Bản thân người kết án oan sai cũng phải chứng minh thiệt hại của mình trong quá trình thương lượng đúng không ạ? Và cho em hỏi luôn là quá trình thương lượng này sẽ diễn ra với cơ quan nào ạ, là toà án vừa kết oán sai hay một cơ quan có thẩm quyền khác?

     
    Báo quản trị |  
  • #524857   01/08/2019

    minhtam130496
    minhtam130496

    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:01/04/2019
    Tổng số bài viết (81)
    Số điểm: 820
    Cảm ơn: 4
    Được cảm ơn 25 lần


    thuytien317 viết:

    Điều đó đồng nghĩa với việc sẽ không có khung trần về số tiền tối đa đúng không admin? Bản thân người kết án oan sai cũng phải chứng minh thiệt hại của mình trong quá trình thương lượng đúng không ạ? Và cho em hỏi luôn là quá trình thương lượng này sẽ diễn ra với cơ quan nào ạ, là toà án vừa kết oán sai hay một cơ quan có thẩm quyền khác?

    Theo Luật Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước 2017

    Người giải quyết bồi thường là người được cơ quan giải quyết bồi thường cử để thực hiện việc giải quyết yêu cầu bồi thường.

    Cơ quan giải quyết bồi thường là cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại hoặc Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật về tố tụng.

    Điều 42. Thủ tục tiếp nhận và sử lý hồ sơ

    1. Cơ quan giải quyết bồi thường tiếp nhận hồ sơ, ghi vào sổ nhận hồ sơ và cấp giấy xác nhận đã nhận hồ sơ cho người yêu cầu bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường nộp hồ sơ trực tiếp. Trường hợp hồ sơ được gửi qua dịch vụ bưu chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan giải quyết bồi thường phải thông báo bằng văn bản về việc nhận hồ sơ cho người yêu cầu bồi thường.

    2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường thực hiện các việc sau đây:

    a) Yêu cầu người yêu cầu bồi thường bổ sung hồ sơ trong trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 41 của Luật này;

    b) Yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền cung cấp văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường đề nghị cơ quan giải quyết bồi thường thu thập văn bản đó hoặc làm rõ nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường trong trường hợp nội dung của văn bản đó không rõ ràng.

    3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Thủ trưởng cơ quan giải quyết bồi thường quy định tại khoản 2 Điều này, người yêu cầu bồi thường phải bổ sung hồ sơ, cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải cung cấp văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường hoặc làm rõ nội dung văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường. Khoảng thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự không tính vào thời hạn quy định tại khoản này.

     
     
    Báo quản trị |