Chào bạn!
Từ những thông tin mà bạn cung cấp, mình xin được tư vấn cho bạn như sau:
1. Tội danh:
Theo như bạn nói, 4 năm trước bạn và bạn của bạn đã tiến hành thỏa thuận một hợp đồng dân sự (giấy vay nợ) hợp pháp. Sau đó, bạn của bạn đã đã bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền vay đó.
Theo quy định Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, BLHS 1999, sửa đổi năm 2009:
Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
...
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
Như vậy, theo pháp luật quy định, bạn của bạn đã phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với khung hình phạt từ 2 đến 7 năm theo điểm d, khoản 2 điều 140, BLHS
Bạn nên lưu ý là mức hình phạt này có thể thay đổi trên thực tế tùy thuộc vào nhân thân và hoàn cảnh phạm tội của người người phạm tội theo các quy định cụ thể trong BLHS.
2. Bảo vệ quyền lợi của bản thân
Bạn có thể thực hiện theo quy định của BLTTHS 2003 để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình:
- Thời hiệu: Theo quy định BLHS Điều 23. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
Trường hợp của bạn, thời hiệu được tính kể từ khi bạn của bạn bỏ trốn để chiếm đoạt số tiền đó, đến nay chưa được 4 năm nên thời hiệu truy cứu TNHS vẫn còn.
Để tố cáo tội phạm mà bạn của bạn đã thực hiện, bạn phải làm Đơn tố cáo gửi đến cơ quan Công an huyện/ quận nơi tội phạm diễn ra, TH này chính là nơi bạn của bạn cư trú trước khi bỏ trốn, theo quy định tại Khoản 4, điều 110. BLTTHS:
4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt
Cơ quan điều tra sẽ xác minh Đơn Tố cáo của bạn và tiến hành khởi tố vụ án và bị can theo quy định pháp luật.
Trân trọng!