Chào bạn.
Điều 42 Bộ luật Lao động quy định như sau: “Khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, từ một năm trở lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương, nếu có”.
Điểm a và c, khoản 3, Điều 14 - Nghị định 44/CP quy định Về thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian đã làm việc theo các bản hợp đồng lao động đã giao kết mà người lao động thực tế làm việc cho người sử dụng lao động... Trong trường hợp sau khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp mà người lao động chấm dứt hợp đồng lao động, thì người sử dụng lao động kế tiếp có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động kể cả thời gian người lao động làm việc cho người sử dụng lao động liền kề trước đó.
Tại Điều 81 Luật Bảo hiểm xã hội quy định điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp nêu rõ: “Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:
Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trở lên trong thời gian hai mươi bốn tháng trước khi thất nghiệp;
Đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội;
Chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều này”.
Như vậy, trường hợp của bạn nếu đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ mười hai tháng trong thời gian hai mươi bốn tháng trước khi thất nghiệp, đã đăng ký bảo hiểm thất nghiệp với cơ quan bảo hiểm xã hội, và chưa tìm được việc làm sau mười lăm ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp thì bạn sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Theo đó, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định rõ tại Điều 82 Luật bảo hiểm xã hội cụ thể như sau: “Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của sáu tháng liền kề trước khi thất nghiệp.
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định như sau:
Ba tháng, nếu có từ đủ mười hai tháng đến dưới ba mươi sáu tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
Sáu tháng, nếu có từ đủ ba mươi sáu tháng đến dưới bảy mươi hai tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
Chín tháng, nếu có từ đủ bảy mươi hai tháng đến dưới một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp;
Mười hai tháng, nếu có từ đủ một trăm bốn mươi bốn tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên”.
Đề nghị, bạn liên hệ trực tiếp với cơ quan bảo hiểm xã hội để được giải quyết tiền trợ cấp thất nghiệp.
Tại khoản 6 Điều 139 Luật bảo hiểm xã hội quy định: “Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Luật này không được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về cán bộ, công chức”
Quy định này được hiểu như sau: kể từ ngày 01/1/2009 (ngày luật bảo hiểm thất ngiệp có hiệu lực) khoản tiền 1% hàng tháng người sử dụng lao động đóng vào quỹ bảo hiểm thất ngiệp chính là khoản tiền chi trả bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động thôi việc hoặc mất việc làm.
Vì vậy,. theo như trường hợp của bạn thì bạn vẫn được hưởng trợ cấp thôi việc tính đến 31/12/2008, và đồng thợi bạ sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định.
Tuy nhiên, trợ cấp thôi việc là do doanh nghiệp chi trả, còn bảo hiểm thất nghiệp thì do BHXH chi trả.Bạn nên liên hệ với doanh nghiệp để được hưởng trợ cấp thôi việc
riêng đối với trợ cấp thất nghiệp thì bạn phải đăng ký theo quy định để được lãnh.
Thân chào bạn.
Luật sư NGUYỄN DUY TÂM
Công ty Luật Hợp Danh QUỐC VIỆT
ĐC: 53 Nguyễn Ái Quốc, phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
ĐT: 061 3600436
DĐ: 0917 179737
Email: [email protected]