Thi hành án huyện Cao Lộc,tỉnh Lạng Sơn thi hành theo bản án mà các thông tin về đối tượng thi hành không rõ ràng, chính xác với thực tế
Kính gửi: Các cơ quan thông tấn báo chí, các luật sư cùng toàn thể bạn đọc
Tôi tên là : Nguyễn Ngọc Dinh, sinh năm 1936.
ĐKHKTT : Tổ 1, khối 5, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
Tôi làm đơn này xin trình bày với Quý báo một việc như sau:
Là người dân bị mất đất do sự thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý của Phòng tài nguyên môi trường huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn dẫn đến hai bản án trái pháp luật là Bản án số 31/2015/DS-PT ngày 24/06/2015 của TAND tỉnh Lạng Sơn và Bản án số 02/2014/DSST ngày 09/06/2014 của TAND huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
Bằng lá đơn này, kính gửi đến Quý Báo về thông báo tạm giao đất đã xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi công sức đóng góp của tôi dẫn đến việc bị mất trắng đất và bị phá hủy tài sản của gia đình tôi mà ngày 22/3/2016 Chấp hành viên Nông Xuân Tiến của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc có dẫn đoàn gồm có đại diện VKSND huyện Cao Lộc, đại diện UBND huyện Cao Lộc và các ban ngành liên quan đến nhà tôi tại tổ 1, khối 5, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc để tiến hành lập biên bản thực địa đo đạc mốc giới, liệt kê tài sản phải thi hành án xuống làm việc trực tiếp tại hiện trường. Trong quá trình đoàn thi hành án làm việc tiến hành đo đạc đã hủy hoại tài sản trên đất của tôi và lập trước biên bản các thành viên trong đoàn đã kí, tại hiện trường chỉ có bị đơn được kí rồi cất biên bản vào cặp. Khi gia đình tôi yêu cầu đọc biên bản tại chỗ mới chịu lấy ra đọc thì biên bản viết thiếu. Tôi có ý kiến bổ sung vào biên bản cho đầy đủ thì lại không ghi ý kiến của gia đình tôi. Khi về không giao 1 bản nào của biên bản cho gia đình tôi. Trên thửa đất là tài sản phải thi hành án có rất nhiều cây trồng của gia đình tôi, có cả cây lấy gỗ, thế nhưng trong biên bản ngày hôm đó chấp hành viên Nông Xuân Tiến lập lại ghi trên đất không có tài sản gì, đất là đất trống giống như bản án sơ thẩm và phúc thẩm của TAND tỉnh Lạng Sơn. Việc 2 bản án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là không xem xét, thẩm định tài sản trên đất, gia đình chúng tôi đã có đơn khiếu nại giám đốc thẩm và cơ quan có thẩm quyền nhưng chưa được trả lời.
Việc Chấp hành viên Nông Xuân Tiến lập biên bản ghi trên đất là đất trống, không có tài sản là trái với quy định của pháp luật. Tại buổi hôm đó, ông Hoàng Văn Thọ không mặc trang phục của cán bộ cơ quan thi hành án nhưng lại nhận là ở Thi hành án và liên tục có những chỉ đạo, hành vi không đúng về việc thi hành án cụ thể như sau:
Ông Hoàng Văn Thọ là Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tại thời điểm đó là thời điểm làm việc hành chính, ông Thọ lại không mặc đúng trang phục cán bộ cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư số 01/2011/TT-BTP ngày 10/01/2011 của Bộ Tư pháp. Đồng thời, ông Thọ không phải là thành viên trong Đoàn thi hành án của ngày 22/03/2016 nhưng lại có ý kiến, chỉ đạo, tham gia vào việc thi hành án với tư cách là thuộc cơ quan Thi hành án.
Ông Hoàng Văn Thọ với tư cách là Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, là thủ trưởng trực tiếp của Chấp hành viên Nông Xuân Tiến nhưng lại không nhắc nhở cán bộ cấp dưới của mình thực hiện đúng quy định của pháp luật, không cho người phải thi hành án được ký vào biên bản và ghi lại lời trình bày của người phải thi hành án vào biên bản. Đồng thời, đoàn thi hành án ngày hôm đó tiến hành đo đạc, thẩm định không đầy đủ, đúng thủ tục cũng không được ông Thọ nhắc nhở, chỉ đạo.
Ông Hoàng Văn Thọ có ý kiến chỉ đạo là do hai bản án đều ghi đất trống nên biên bản xem xét, thẩm định của cơ quan thi hành án cũng phải ghi là đất trống là không đúng với thực tế, trái với quy định của pháp luật.
Tòa án đánh giá không đúng chứng cứ, không vô tư khách quan và có nhiều sai phạm.
Bản án số 31/ 2015 DT – PT của TAND tỉnh Lạng Sơn. Căn cứ vào nguồn gốc đất là của bà Nguyễn Thị Dung để lại cho Dương Thị Hằng. Nhưng trên thực tế sử dụng đất của nhà tôi không có cạnh nào tiếp giáp với đất của bà Nguyễn Thị Dung theo QĐ số 344/ UB - QĐ ngày 13.09.1996 của UBND huyện Cao Lộc,GCN QSDĐ số 589035 của UBND huyện Cao Lộc. Công văn số 1259/ STNMT – ĐĐBĐ ngày 18/ 12/ 2015 của STNMT tỉnh Lạng Sơn và Công văn số: 206/UBND xã Hợp Thành trả lời cho gia đình tôi. Vậy mà Tòa án cố tình xử sai lấy 236,7m2 của gia đình tôi cho Dương Thị Hằng.
Tòa án căn cứ vào trích đo địa chính khu đất số 298 TĐĐC của Văn phòng đăng ký QSDĐ tỉnh Lạng Sơn do GĐ: Lương Thị Thủy vẽ Cấp chồng 7 hộ và 2 hộ nữa là Nguyễn Thị Dung và Vũ Văn Tân( không có diện tích đất) và chưa được phòng ĐĐBĐ kiểm duyệt đã nộp cho Tòa án dẫn đến việc gia đình tôi bị mất đất.
Không thể đồng ý với phán quyết thiếu công bằng, đánh giá không đúng chứng cứ, không vô tư khách quan và có nhiều sai phạm của TAND tỉnh Lạng Sơn. Gia đình tôi đã tự đi tìm chứng cứ và thu được công văn số 1259/ STNMT - ĐĐBĐ ngày 18/12/2015 của STNMT tỉnh Lạng Sơn và công văn số 206/ UBND xã Hợp Thành ngày 4/ 4/ 2016 trả lời đất của gia đình tôi không có cạnh nào giáp với đất của bà Nguyễn Thị Dung
Như vậy, ứng với QĐ số 344/ UB - QĐ ngày 13.09.1996 của UBND huyện Cao Lộc,GCN QSDĐ số 589035 của UBND huyện Cao Lộc. Công văn số 1259/ STNMT – ĐĐBĐ ngày 18/ 12/ 2015 của STNMT tỉnh Lạng Sơn và Công văn số: 206/UBND xã Hợp Thành trả lời cho gia đình tôi thì mảnh đất tranh chấp 236,7m2 thuộc quyền sở hữu của gia đình tôi vì:
Thứ nhất: Tôi có sổ sách rõ ràng, sứ dụng đất ổn định, hợp pháp, có người làm chứng, có hóa đơn đền bù tiền cây. Trên đất có tài sản là cây cối, bị đơn tự thi hành án hiện nay công an huyện Cao Lộc đang thụ lí vụ việc.Vậy mà Tòa án lấy đất của tôi giao cho bị đơn và không đề cập đến cây cối trên đất của tôi.
Năm 1996 gia đình tôi được nhà nước giao đất giao rừng để “phủ xanh đồi trọc” theo chủ trương của Đảng và chính phủ và tôi được UBND huyện cấp sổ bìa xanh - đến năm 2010 thì được chuyển sang sổ đỏ. Gia đình tôi đã trồng trên thửa đất được giao nhiều loại: cây lấy gỗ, cây ăn quả … đều là công sức của gia đình tôi tạo ra. Tôi vẫn quản lí canh tác ổn định, liên tục đúng mục đích. Trong 4 lần xét xử Ý kiến của ĐD UBND huyện Cao Lộc đều xác nhận việc cấp giấy chứng nhận cho Tôi là đúng đối tượng, đúng trình tự, đúng thủ tục pháp luật đất đai đã quy định.”
Quá trình sử dụng tôi đã được làm thủ tục, tiến hành kê khai, xác định ranh giới với các hộ liền kề để làm thủ tục cấp GCNQSDĐ đồng loạt cho toàn khối. Cả 2 lần khi đi giao đất đều có chính quyền địa phương và các hộ gia đình được giao đất có mặt đầy đủ để thống nhất ranh giới. Những người có mặt để nhận đất lúc bấy giờ đều xác nhận bà Dung không nhận đất đồi khi chính quyền địa phương và cán bộ lâm nghiệp giao( ông Tân là trưởng thôn lúc bấy giờ - trực tiếp là người giao đất, bà Soạn, bà Thanh - là hàng xóm đều xác nhận bà Dung không nhận đất đồi khi chính quyền địa phương và cán bộ lâm nghiệp). Tôi vẫn quản lí ổn định và sử dụng đúng mục đích: công khai trồng cây bạch đàn, đu đủ ... trên toàn bộ khu đất trong đó có diện tích đất đang tranh chấp bây giờ. Không có sự tranh chấp về ranh giới với các hộ liền kề (Ông Thai)và những người hàng năm lên tỉa cành, cắt cây khi được đền bù chứng nhận cho đồi của nhà tôi( anh: Đỗ Duy Anh, Nông Văn Hòa, Hoàng Văn Phong, Nguyễn Ánh Dương). Còn cây trồng trên đất Tôi đã được đền bù với số tiền hơn 10.980.000đồng.
Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 22/5/2012 của Hội đồng xem xét thẩm định tại chỗ do Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc xác nhận vị trí và nguồn gốc khu đất tranh chấp: Khu đất có vị trí tại Km1 + 500 thuộc tổ 1,khối 5, xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc, Diện tích đất tranh chấp nằm trong thửa 731, tờ bản đồ số 01 bản đồ địa chính đất Lâm nghiệp xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đo vẽ năm 2008. Trước đây thửa số 731 là 1 phần của tờ 154, tờ bản đồ địa chính số 57 xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đo vẽ năm 1998. Nguồn gốc thửa 731 này là năm 1996 gia đình ông Dinh Nhà nước giao hồ sơ quản lí và sử dụng đất rừng và đất trồng rừng( sổ bìa xanh) thuộc mảnh 52 với diện tích 0,12ha, theo quyết định số 344/UB - QĐ ngày 13/9/1996 của UBND huyện Cao Lộc. Khu đất có 2 mặt giáp ranh với đất rừng nhà ông Tân ( lô 21) và đất rừng nhà ông Hưởng( lô 22 , ông Hưởng là bố đẻ của ông Hùng). tổng diện tích đất tranh chấp là 271,56m2. Diện tích đất tranh chấp nằm trong thửa 731, UBND huyện Cao Lộc đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ ông Dinh năm 2010.
Anh Đoàn Năng Hùng công nhận diện tích đất tranh chấp giữa ông Dinh và chị Hằng đã được nhà nước cấp GCN QSDĐ cho ông Dinh thuộc thửa 731.
Đối với đất Lâm nghiệp tại giấy chứng nhận QSDĐ vào sổ cấp CH 00144, thửa số 731, tờ bản đồ số 01 bản đồ địa chính đất Lâm nghiệp xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc đo vẽ năm 2008, diện tích 4.099m2 do UBND huyện Cao Lộc cấp cho hộ ông Dinh. Năm 2010 khi làm đường quốc lộ 4B Nhà nước chỉ bồi thường tiền cây trên phần đất bạt tà luy. Riêng đất, khi thi công chỉ bị ảnh hưởng khi làm mái tà luy và đơn vị thực hiện dự án mượn phần đất này để thi công.
Tại công văn số 598/UBND – TNMT ngày 10/7 2012, UBND huyện Cao Lộc khẳng định số diện tích đất tranh chấp trên nằm ngoài chỉ giới thu hồi công trình cải tạo, nâng cấp quốc lộ 4B. Cũng tại công văn số 133/BQLDA ng ày 17/4/2013 của ban quản lí dự án sở giao thông vận tải tỉnh Lạng Sơn khẳng định: Phần diện tích đất trên mái tà luy nền đào và mái tà luy nền đắp, trong quá trình thi công mượn đất của dân, sau khi thi công xong, các hộ dân tiếp tục sử dụng đất trên mái tà luy thuộc đoạn đường qua đô thị.Như vậy diện tích đất tranh chấp trên nằm trong thửa 731.
Nhưng đến tháng 6/ 2010 thì vợ chồng Dương Thị Hằng từ số nhà 16 Văn Vỉ phường Chi Lăng thành phố Lạng Sơn đem hơn 30 tên côn đồ sang đe dọa, dùng máy xúc đồi của tôi( tôi đã san được 15 m theo chiều dài mặt đường, sâu 12m) chúng san tiếp vào chiếm 236,7m2. Tôi làm đơn kiện lên UBND và TAND huyện Cao Lộc giải quyết. Ngày 11/ 6 / 2013 Tòa án đã xử bắt vợ chồng Hằng phải trả lại đất đồi đã chiếm của tôi và chúng phải nộp án phí. Khi bị thua, gia đình Hằng làm đơn kháng cáo và họ đã vẽ sơ đồ không đúng sơ đồ gốc của tôi trong sổ đỏ mà giá tiền là hơn 16tr đồng. Họ làm sai như vậy là do khi đoàn đến làm việc tại hiện trường biên bản không vẽ sơ họa, không có nội dung mọi người chỉ được kí vào tờ giấy trắng. Sau đó Tòa án xét xử theo bản đồ đó bắt tôi phải giao đất cho Hằng diện tích đã chiếm chờ ngày cấp sổ và tôi phải nộp án phí cụ thể họ làm sai như sau:
1. Văn phòng đăng ký QSDĐ tỉnh Lạng Sơn do GĐ: Lương Thị Thủy vẽ sơ đồ không đúng thực tế đất của tôi đang sử dụng:
- Cấp chồng 7 hộ liền kề là không đúng thực tế vì chỉ có 3 gia đình quản lí và không có sự tranh chấp về ranh giới với các hộ liền kề.
- Phía nam giáp đất RST của ông Vũ Văn Tân và Đất RST bà Nguyễn Thị Dung(theo bản đồ năm 1998) là không đúng với hiện trạng đất đang sử dụng trên thực tế mà là đất của gia đình tôi.
- Diện tích thửa 725 nằm trọn trong thửa 246 mà cả Hùng và Ninh đều công nhận đất trên đỉnh đồi vậy tại sao trong trong trích đo của Văn phòng đăng ký QSDĐ tỉnh LS lại vẽ ở sát mặt đường.
2. TAND tỉnh Lạng Sơn ghi bản án chưa đúng còn thiếu vì:
- Chưa làm rõ tại sao biên bản thẩm định tại chỗ cho 2 kết quả khác nhau về diện
tích đất và các phía tiếp giáp của diện tích đất tranh chấp thì kết quả nào là chính xác?
- Xử theo bản vẽ sai của Văn phòng đăng ký QSDĐ Tỉnh Lạng Sơn mà không điều tra hiện trạng đất đang sử dụng trên thực tế của tôi.
- Ghi trong bản án gia đình tôi đã bị thu hồi khoảng 3000m2 đất là sai vì gia đình tôi cho mượn đất chứ không phải bị thu hồi.
- Gia đình tôi đã san được 15 m đất chiều mặt đường chiều sâu 12m chứ không phải Hằng đã san 28m đất chiều dài mặt đường.
- Trên đất của tôi có tài sản( tôi đã trồng trên thửa đất được giao nhiều loại: cây lấy gỗ, cây ăn quả … đều là công sức của gia đình tôi tạo ra) mà bản án chưa xem xét giải quyêt tài sản là các cây trên đất của tôi.
3. Bị đơn Dương Thị Hằng tự thi hành án.
Sáng ngày 9/8/2105, vợ chồng Dương Thị Hằng mang theo hơn 20 thanh niên đầu gấu đến uy hiếp gia đình tôi, đánh đập vợ tôi và chặt phá toàn bộ số cây bạch đàn cùng các cây khác trên diện tích đất 236,7m2 của gia đình tôi khi chưa có thông báo của Thi hành án. Ngay sau khi vụ việc xảy ra, gia đình tôi đã trình báo và Công an huyện Cao Lộc đã cử cán bộ xuống lập biên bản ghi nhận nội dung vụ việc. Gia đình tôi cũng đã làm đơn tố cáo vợ chồng Dương Thị Hằng tới các cơ quan có thẩm quyền để xem xét xử lý hành vi vi phạm pháp luật của vợ chồng Dương Thị Hằng và hơn 20 thanh niên đầu gấu đi cùng theo đúng các quy định của pháp luật. Đến thời điểm này, cơ quan Công an huyện Cao Lộc đang thụ lý giải quyết vụ việc và vẫn chưa có kết luận điều tra trả lời gia đình tôi.
4. Thi hành án ghi biên bản thiếu và không đúng sự thật.
- Hiện nay, trên diện tích đất 236,7m2 mà gia đình tôi đã quản lý, sử dụng từ trước đến nay vẫn còn nhiều cây cối mặc dù vợ chồng Dương Thị Hằng và hơn 20 thanh niên đến chặt cây và khiêng muối rắc vào nhưng vườn cây vẫn mọc lên xanh tôt. Do đó, việc Thi hành án xuống lập và ghi vào biên bản là “ bãi đất trống” là không đúng sự thật.
- Chưa xác minh làm rõ phía tiếp giáp của diện tích đất tranh chấp: Phía nam giáp đất RST của ông Vũ Văn Tân và Đất RST bà Nguyễn Thị Dung(theo bản đồ năm 1998) là không đúng với hiện trạng đất đang sử dụng trên thực tế mà là đất của gia đình tôi.
- Chi cục trưởng chi cục THA dân sự huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn Hoàng Văn Thọ nói rằng:”Trong bản án không ghi rõ có tài sản trên đất nên chúng tôi không dám ghi vào biên bản”.
Thứ hai: Bị đơn không có đất
* Nhà Dương Xuân Tuấn không có đất đồi vì khi giao bà Dung không nhận.
* Tại QĐ số 672/QĐ – UB ngày 31/12/2000,UBND huyện Cao Lộc đã cấp GCN QSDĐ cho ông Tuấn tại thửa 142, tờ bản đồ số 57, bản đồ địa chính xã Hợp Thành, diện tích đất được cấp là 111,2m2( chính là đất giáp ranh với đất nhà ông Dinh đã bị thu hồi). Khi cải tạo nâng cấp nâng cấpQL 4B UBND Cao Lộc đã ra QĐ số 426/QĐ – UBND ngày 4/5/2008 thu hồi 111,2 m2 đất tại thửa 142 đã cấp cho ông Tuấn xác nhận ngoài diện tích đất ở ra không còn diện tích đất nào khác. Năm 2008 khi nhận tiền bồi thường ông Tuấn đã nộp lại GCN QSDĐ. Như vậy phần đất của ông Tuấn đã bị thu hồi hết.
* Công văn giải quyết việc tranh chấp của UB Xã Hợp Thành xác nhận phần đất của ông Tuấn đã bị thu hồi hết.
Tôi tha thiết đề nghị Quý Báo và các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết vụ việc đúng với pháp luật của Nhà nước để gia đình tôi tiếp tục được quản lí và sử dụng diện tích đất vốn đã nằm trong thửa 731 có diện tích 4099m2 mà Nhà nước đã cấp sổ bìa đỏ cho gia đình tôi quản lí và sử dụng.
Xin chân thành cảm ơn.
Tôi gửi kèm theo đơn:
1. QĐ số 344/ UB - QĐ ngày 13.09.1996 của UBND huyện Cao Lộc.
2. GCN QSDĐ số 589035 của UBND huyện Cao Lộc.
3. Công văn số 1259/ STNMT – ĐĐBĐ ngày 18/12/2015 của STNMT tỉnh Lạng Sơn
4. Công văn số 232 ngày 3/9/2015 của công an huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn.
5. Công văn số: 206/UBND xã Hợp Thành
6 . Giấy xác nhận của UBND xã Hợp Thành ( Chủ tịch kí).
7. Giấy xác nhận của ông trưởng thôn khối 5 đi giao đất giao rừng năm 1996 - và 1 số bà con lân cận).
8.Thông báo 128
9. Quyết định Thi hành án theo đơn yêu cầu số 320/QĐ-CCTHA ngày 24/08/2015
10.Bản án số 31/2015/DS-PT ngày 24/06/2015 của TAND tỉnh Lạng Sơn.
11.Bản án số 02/2014/DSST ngày 09/06/2014 của TAND huyện Cao Lộc.
12.Bản án số 06/2013/DS – ST ngày 11/6/2013
13.Hóa đơn đền bù tiền cây
Người làm đơn
Nguyễn Ngọc Dinh