TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CÓ MỒ MẢ
Tranh chấp có liên quan đến mồ mả là quan hệ tài sản hay quan hệ nhân thân? Quan hệ này có phải là đối tượng điều chỉnh của luật Dân sự Việt Nam hay không? Vì sao?
Tranh chấp đất đai có mồ mả là một vấn đề phức tạp, vì nó đụng chạm đến vấn đề tâm linh của con người, phần đất tranh chấp có mồ mả của những người thân thích như ông, bà, cha, mẹ… của họ. Việc đụng chạm đến mồ mả còn liên quan đến phong tục, tập quán của từng vùng, miền, liên quan đến đạo đức, đến cách đối nhân xử thế giữa con người với con người mà ở đây họ là những người có quan hệ họ tộc với nhau. Khi có tranh chấp, có nơi tòa thụ lý nhưng cũng có nơi tòa từ chối nhận đơn.
Khi nhận đơn để thụ lý giải quyết, có nơi giải quyết luôn cả phần có mồ mả, có nơi tách phần đất có mồ mả đưa về ủy ban địa phương giải quyết. Tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có hướng dẫn khi tranh chấp đất đai có mồ mả, hài cốt thì tòa chỉ có thẩm quyền giải quyết về tranh chấp quyền sử dụng đất, không giải quyết quyết tranh chấp liên quan đến mồ mả, hài cốt trong phần đất tranh chấp.
TÌNH HUỐNG 1
Trước đây, bà N., ngụ quận Bình Tân (TP.HCM), được cha mẹ cho một miếng đất. Sau đó bà được UBND quận cấp giấy đỏ. Do trên đất rải rác có vài ngôi mộ của gia đình nên giấy đỏ ghi mục đích sử dụng là đất nghĩa địa.
Sau khi một người anh của bà N. qua đời, gia đình người anh qua hỏi xin chôn trên đất của bà nhưng bà không đồng ý. Do ở xa, không trực tiếp quản lý đất nên gia đình người anh vẫn tiếp tục chôn mà bà không hay biết
Năm 2007, biết việc, bà N. đã khởi kiện nhờ TAND quận tuyên dời mộ người anh ra khỏi đất của bà. Nhận đơn, tòa lắc đầu từ chối thụ lý vì cho rằng không thuộc thẩm quyền. Bà N. khiếu nại việc này thì bị lãnh đạo tòa bác đơn. Do vậy, bà N. phải quay về nhờ chính quyền địa phương can thiệp. Nhưng chính quyền địa phương cũng lúng túng, không biết xử lý sao…
TÌNH HUỐNG 2
Tháng 4-2010, ông S. nhiều lần đến gặp chú ruột xin được cải táng mồ mả cha mẹ hiện chôn cất tại khu mộ gia tộc trên đất của người chú ở Lai Vung (Đồng Tháp) về một nghĩa trang tại TP Cần Thơ để tiện bề chăm sóc.
Người chú cương quyết không đồng ý nên ông S. phải nhờ đến chính quyền xã. Xã đã vận động người chú cho ông S. bốc mộ cha mẹ nhưng bất thành. Ông S. bèn gửi đơn nhờ huyện Lai Vung giải quyết thì bị từ chối, chỉ qua TAND huyện vì nội dung yêu cầu của ông không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND huyện.
Ông S. kiện ra TAND huyện Lai Vung, tòa cũng trả lại đơn vì cho rằng vụ việc của ông không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Bế tắc, ông S. không biết phải đi đâu, nhờ nơi nào để được bốc mộ cha mẹ về trông nom, hương khói
=> (1) & (2) quan điểm chung của ngành tòa án là nếu có tranh chấp đất đai có liên quan đến mồ mả thì tòa sẽ chỉ giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất, không thụ lý, giải quyết phần mồ mả.
TÌNH HUỐNG 3: TRÍCH TỪ BẢN ÁN
Vừa qua Tòa án nhân dân tối cao đã có Quyết định giám đốc thẩm hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm về tranh chấp đất đai có liên quan đến mồ mả.
Nguyên đơn bà Trương Thị Mai trình bày:
Phần đất tranh chấp có diện tích 225m2 (đo đạc 188,4m2) thuộc thửa 1531 tờ Bản đồ số 1 tọa lạc tại phường Linh Đông, quận Thủ Đức. Ông Đỗ Văn Thiên được Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 31/7/2001 (trong tổng diện tích đất 1.147m2 mà ông Thiên sử dụng).
Nguồn gốc đất là của cụ Nguyễn Văn Nhâm là bố của bà Trương Thị Mai cho cụ Đỗ Văn Kiến là cha của ông Thiên canh tác trước năm 1975. Khi Nhà nước có chủ trương đưa đất vào tập đoàn thì ông Thiên đứng ra đăng ký sử dụng.
Ngày 20/6/2000 và ngày 28/6/2000, bà Mai tranh chấp đất với ông Thiên tại Ủy ban nhân dân phường Linh Đông, quận Thủ Đức. Sau khi hòa giải tại phường, hai bên thống nhất phần đất chung 1.212m2, ông Thiên trả cho bà Mai ½ diện tích đất là 515,2m2 (trong đó có 370,7m2 là đất trồng rau; 144,5m2 là đất thổ mộ), ông Thiên tiếp tục sử dụng phần còn lại 706,8m2. Bà Mai trả cho ông Thiên công sức hoa màu trên đất là 30.000đ/m2, tổng cộng là 10.000.000đ. Ông Thiên đã nhận tiền và giao đất rau muống và mồ mả cho bà Mai.
Ngày 15/5/2008, hộ ông Thiên và bà Mai lập hợp đồng sang nhượng phần đất trên theo Hợp đồng số 13161 với số tiền chuyển nhượng là 70.000.000đ nhưng thực tế bà Mai trả cho ông Thiên tiền công sức là 10.000.000đ.
Sau đó, bà Mai yêu cầu ông Trương Văn Mừng trả lại phần đất trên nhưng ông Mừng không đồng ý. Bà Mai khởi kiện yêu cầu ông Mừng trả lại phần đất mồ mả có diện tích 188,4m2thuộc thửa 1531 tờ bản đồ số 1 tọa lạc tại phường Linh Đông, quận Thủ Đức vì thuộc quyền sử dụng của bà Mai theo hợp đồng chuyển nhượng đất tại Phòng công chứng số 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn ông Trương Văn Mừng trình bày:
Đất tranh chấp là đất thổ mộ của gia tộc do gia đình ông Mừng quản lý từ trước năm 1945 và nằm liền phía sau nhà của ông. Gia đình ông sử dụng phần đất này để làm đất thổ mộ. Trên đất có 03 ngôi mộ đá ong và 03 ngôi mộ đất. Người được chôn sau cùng là năm 1928. Năm 1987, do nhu cầu xây dựng Ủy ban nhân dân xã Linh Đông nên Ủy ban đã giải tỏa nghĩa địa Gò Bà Nhành. Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức chỉ đạo Đội vệ sinh môi trường của quận Thủ Đức đến bốc mộ để cải táng, trong đó gia tộc của ông có 22 mộ và ông đã đưa hài cốt về đất thổ mộ của gia tộc để cải táng, trên mỗi ngôi mộ đều có khắc tên, tuổi riêng cho từng người. Tổng cộng phần đất này có 28 ngôi mộ. Ông không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
Ông Nguyễn Minh Quang không có gì tranh chấp, đề nghị tòa giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bà Nguyễn Thị Liên vợ ông Mừng thống nhất ý kiến của ông Mừng.
Ông Đỗ Văn Thiên trình bày: Thống nhất như lời trình bày của bà Mại. Phần đất tranh chấp hiện nay ai sử dụng ông không biết, ông yêu cầu tòa giải quyết theo quy định của pháp luật. Vợ và các con của ông Thiên thống nhất trình bày của ông Thiên.
Đại diện Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức trình bày: Trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Thiên vào năm 2001 là đúng quy trình quy định của Nhà nước nhưng khi cấp không kiểm tra để trừ diện tích đất có mồ mả.
Tại bản án sơ thẩm, Tòa án đã quyết định:
- Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thổ mộ có diện tích 188,4m2 thuộc thửa 1531, tờ bản đồ số 1, phường Linh đông, quận Thủ Đức giữa ông Đỗ Văn Thiên và bà Trương Thị Mai theo bản đồ hiện trạng vị trí do Sở tài nguyên và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh lập ngày 02 tháng 7 năm 2010.
- Bác yêu cầu của bà Trương Thị Mai buộc ông Trương Văn Mừng trả lại phần đất thổ mộ có diện tích 188,4m2.
- Kiến nghị Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức thu hồi và điều chỉnh phần đất cấp cho ông Đỗ Văn Thiên theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 332/QĐ-UB ngày 31/7/2001 của Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Dành quyền khời kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật giữa bà Trương Trương Thị Mai và ông Đỗ Văn Thiên khi có yêu cầu.
- Sau khi xử sơ thẩm, bà Mai kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm, Tòa án đã quyết định:
1/Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Mai
Buộc ông Trương Văn Mừng có trách nhiệm trả lại diện tích đất 225m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 955759 ngày 31/7/2001 của Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức cấp cho bà Trương Thị Mai.
Bà Mai có trách nhiệm liên hệ với cơ quan chức năng đo vẽ lại diện tích chính xác để điều chỉnh diện tích đất thực tế sử dụng.
2/Buộc ông Trương Văn Mừng có trách nhiệm tháo dỡ hàng rào lưới B40 bên phải từ ngoài lộ nhìn vào kéo hết đất, toàn bộ rào phía trước lộ số 20 và mang ra khỏi đất 07 cây cau bụng (cau kiểng), Mang số hài cốt chôn trên diện tích 2,19 mét x 8,38 mét để trả lại quyền sử dụng đất cho bà Mai ngày sau khi án có hiệu lực pháp luật.
3/Công nhận sự thỏa thuận của bà Mai chừa lại đường đi vào mộ ngang 1 mét, dài đến mộ thứ nhất từ ngoài nhìn vào phía bên phải cạnh nàh số 6/3F đường số 20, khu phố 4, phường Linh Đông, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
-Sau khi có bản án phúc thẩm, ông Mừng đã làm đơn đề nghị giám đốc thẩm bản án. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có kháng nghị đề nghị Tòa án nhân dân tối cao hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm.
Tại phần xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm đã nhận định:
Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là quyền sử dụng đất, quá trình giải quyết vụ án, bà Mai không yêu cầu giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với ông Thiên nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thổ mộ có diện tích 188,4m2 nhưng lại giành quyền khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Mai và ông Thiên khi có yêu cầu là không đúng. Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khỏi kiện của bà Mai và phải di dời số hài cốt ra khỏi đất tranh chấp, trong khi phần đất thổ mộ đã có từ trước khi gia đình ông Thiên thuê sử dụng đất. Theo Công văn số 525/UBND-TNMT ngày 03/11/2011 của Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức và tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức có ý kiến khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Văn Thiên là đúng quy định của Nhà nước nhưng khi cấp giấy, Ủy ban nhân dân quận đã không kiểm tra hiện trạng phần đất mà xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Văn Thiên là không đúng. Mặt khác, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất mà trên đất có mồ mả, hài cốt thì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến những ngôi mộ đang chôn cất trong phần đất tranh chấp. Tòa án cấp phúc thẩm xét xử buộc ông Trương Văn Mừng có trách nhiệm mang số hài cốt đang chôn cất trên đất ra khỏi đất tranh chấp để trả đất cho bà Trương Thị Mai là không có căn cứ.
Từ lý lẽ trên, quyết định giám đốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã hủy cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm; giao vụ án về cấp sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Qua vụ việc trên, chúng ta có thể thấy phần đất mà bà Mai yêu cầu ông Mừng phải trả lại cho bà có một phần sử dụng để chôn cất người chết, trong đó có 6 ngôi mộ chôn từ năm 1928 trở về trước, 22 ngôi mộ còn lại là hài cốt được cải táng vào năm 1987. Như vậy số mồ mả ở đây đã có trước khi hộ ông Thiên được cấp giấy chứng nhận vào năm 2001 và trước khi hộ ông Thiên với bà Mai có hợp đồng chuyển nhượng đất cho nhau vào năm 2008. Khi xét xử, tòa án hai cấp đều xác định trên đất có mồ mả, sơ thẩm thì bác yêu cầu, phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Mai, buộc ông Mừng phải trả đất đồng thời còn buộc tháo dỡ hàng rào và mang số hài cốt chôn trên đất (ra khỏi đất) để trả đất cho bà Mai. Mồ mả là của gia tộc, ông Mừng chỉ là một người thân thích nên không thể có toàn quyền của việc di dời mồ mả, mặt khác trong đó tất cả mồ mả đều có trước khi bà Mai nhận chuyển nhượng kể cả khi cụ Nhâm còn sống vào thời điểm trước năm 1975 thì trên phần đất này đã có 6 ngôi mộ. Do đó, việc buộc ông Mừng phải mang số hài cốt đi nơi khác là không phù hợp vì tất cả đều đã được chôn và xây mồ, có khắc tên tuổi của từng người. Mặt khác khi khởi kiện bà Mai không tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Thiên mà chỉ yêu cầu ông Mừng trả lại phần đất do bà đứng tên sử dụng (giám đốc thẩm đã nêu phần này khi nhận xét về việc án sơ thẩm tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Thiên và bà Mai). Như vậy quan hệ pháp luật bị tranh chấp ở đây không phải là quyền sử dụng đất (vì bà Mai đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do có hợp đồng chuyển nhượng với ông Thiên) mà là đòi lại đất của mình đứng tên bị người khác sử dụng.
Do đó, nếu Tòa án có giải quyết thì chỉ giải quyết có trả đất hay không, còn việc di dời mồ mả không thuộc thẩm quyền của Tòa án.
(Theo TAND, PLTP)