Bản án số:98/2006/KDTM-ST Ngày: 06/11/2006
V/v: Tranh chấp Hợp đồng xây dựng
Trong các ngày 06/11/2006, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số58/2006/TLST-KDTM ngày 14/7/2006 về Tranh chấp Hợp đồng xây dựng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/KDTM/QĐXX-ST ngày 18/9/2006 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Lực, sinh năm 1960
Trụ sở: Số 1 – A28 phường Nghĩa Tân – quận Cầu Giấy – Hà Nội
Bị đơn: Công ty Cổ phần Phú Diễn
Trụ sở: Xã Phú Diễn – Từ Liêm – Hà Nội
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
Ông Đinh Văn Thân – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty.
Uỷ quyền theo văn bản ngày 03/11/2006 cho ông Nguyễn Xuân Hưng – Tổng giám đốc đại diện (Có mặt tại phiên toà.)
Nhân chứng:
1. Tổng Công ty xây dựng Công nghiệp Việt Nam
Uỷ quyền cho ông Trịnh Đình Thắng đại diện (vắng mặt)
2. Công ty Cổ phần Kết cấu thép xây dựng
Uỷ quyền cho ông Nguyễn Huy Chương và bà Ngô Thuỳ Linh đại diện. Có mặt tại phiên toà
Nhận thấy
Ngày 20/10/2001, bà Vũ Thị Lực có ký hợp đồng xây dựng số 110/KT với nhà máy quy chế cơ khí xây dựng do ông Nguyễn Huy Chương – giám đốc ký để xây dựng nhà điều hành sản xuất của nhà máy: Theo bà Lực trình bầy: Hợp đồng hai bên ký kết đều hoàn toàn tự nguyện và thoả thuận, đã xây dựng đúng thời gian ký kết, đến khi bàn giao công trình 28/4/2002, thời hạn thanh toán 3 đợt như hợp đồng đã nêu rõ, trị giá hợp đồng 939.850.000đ. Quá trình thực hiện đã phát sinh tổng cộng là 976.494.369đ. Bên A (nhà máy) đã thanh toán cho bên B được 714.846.144đ. Hai bên đã nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng. Ngày 31/5/2002 hai bên đã thanh lý hợp đồng và xác nhận nợ (bên A) nhà máy còn nợ (bên B) bà Lực là 261.648.225đ.
Nhưng (bên A) cũng không thanh toán cho (bên B), nhiều lần hai bên đã đối chiếu công nợ, xác nhận nhà máy còn nợ (bên B) là 261.648.225đ. Nhưng chưa thanh toán. Đầu năm 2003, Công ty Kết cấu thép xây dựng cổ phần hoá đã bàn giao nhà máy về Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam. Công ty kết cấu thép đã bàn giao các khoản nợ của nhà máy, nhưng vẫn chưa thanh toán trả cho bà, khi nhà máy được chuyển đổi cổ phần hoá định giá doanh nghiệp cũng không trả nợ cho bà số tiền trên. Ngày 02/01/2005, bà Lực có đơn khởi kiện nhà máy Quy chế cơ khí xây dựng tại Toà án Từ Liêm yêu cầu thanh toán khoản nợ trên.
Ngày 19/6/2006, Toà án huyện Từ Liêm đã chuyển hồ sơ đến Toà Kinh tế Toà án Hà Nội để giải quyết theo thẩm quyền ngày 11/9/2006 bà Vũ Thị Lực bổ sung đơn khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần Phú Diễn có trách nhiệm thanh toán cho bà số nợ trên 261.648.225đ gốc và lãi chậm trả 96.540.736đ, tổng cộng là 358.188.961đ.
Theo đại diện Công ty Cổ phần Phú Diễn, ông Đinh Văn Thân – Chủ tịch Hội đồng quản trị trình bầy, Công ty cổ phần Phú Diễn trước kia là nhà máy Quy chế cơ khí xây dựng thuộc Công ty kết cấu thép xây dựng năm 2003 Công ty kết cấu thép xây dựng cổ phần hoá đã chuyển nhà máy về Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam. Cuối năm 2004, nhà máy cổ phần hoá doanh nghiệp, Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam không bàn giao cho Công ty Cổ phần Phú Diễn khoản nợ này, còn thủ tục định giá tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hoá là thủ tục chuyển đổi công ty, ông chưa nhận bàn giao của tổng công ty, nên ông không có cơ sở trả nợ cho bà Lực đề nghị Toà xem xét. Nhưng nếu Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam bàn giao cho Công ty thì chúng tôi sẽ trả.
Quá trình giải quyết vụ kiện 2 lần Toà án Hà Nội thông báo hoà giải cho Công ty Cổ phần Phú Diễn, nhưng Công ty Cổ phần Phú Diễn không đến. Vì thế không tiến hành hoà giải được và Toà án Hà Nội đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định chung.
Xét thấy
Công ty Cổ phần Phú Diễn trước kia là nhà máy quy chế cơ khí xây dựng thuộc Công ty kết cấu théo xây dựng thuộc Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam, Bộ Công nghiệp quản lý. Năm 2003, Công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng chuyển đổi doanh nghiệp cổ phần hoá nên đã bàn giao nhà máy quy chế cơ khí xây dựng về Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam. Cuối năm 2003 đầu năm 2005 nhà máy quy chế cơ khí xây dựng đã làm thủ tục cổ phần hoá doanh nghiệp theo Quyết định của Bộ Công nghiệp số 1228 ngày 02/6/2003 và đăng ký kinh doanh số 0103006354 thay đổi lần đầu ngày 24/11/2005.
Ngày 20/10/2001, bà Vũ Thị Lực với tư cách cá nhân và vì mục đích lợi nhuận đã ký kết hợp đồng xây dựng số 110 với giám đốc nhà máy để thi công xây dựng nhà điều hành sản xuất của nhà máy, được phép của Công ty kết cấu thép cơ khí xây dựng và Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam cho phép như tài liệu Công ty kết cấu thép xuất trình và phù hợp với quy chế Công ty kết cấu thép quy định là hợp đồng hợp pháp. Giá trị hợp đồng 939.850.000đ. Khi thực hiện đã phát sinh tổng cộng 976.494.369đ, nhà máy và Công ty kết cấu thép đã thanh toán được 714.846.144đ, còn lại 261.648.225đ. Nhà máy chưa thanh toán, nhiều lần 2 bên đã nhận nợ và có biên bản xác nhận nợ lần cuối cùng ngày 15/12/2004. Nhưng vẫn chưa trả. Ngày 02/01/2005, bà Lực có đơn khởi kiện tại Toà án huyện Từ Liêm. Ngày 11/9/2006 bổ sung đơn khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần Phú Diễn thanh toán số nợ trên.
Xét đơn khởi kiện của bà Vũ Thị Lực vẫn còn trong hạn luật định và thuộc thẩm quyền của Toà án thành phố Hà Nội giải quyết.
Xét yêu cầu của các đương sự Hội đồng xét xử xét thấy căn cứ vào sự thoả thuận của 2 bên đã ký kết trong hợp đồng 110 ngày 20/10/2001 để xây dựng nhà điều hành sản xuất của nhà máy quy chế cơ khí xây dựng thì thời hạn thanh toán mà 2 bên cam kết là 3 đợt: Đợt 1 sau khi hoàn thành móng, đợt 2 khi xây dựng xong phần thô và đợt 3 khi hoàn thiện xong công trình, có nghiệm thu đi vào sử dụng và thực tế 2 bên đã nghiệm thu đã thanh lý hợp đồng nhưng bên A là nhà máy vẫn chưa thanh toán cho bên B như cam kết. Vì thế hai bên đã có biên bản xác nhận nợ như nguyên đơn đã xuất trình tại biên bản ngày 15/12/2004 bị đơn còn nợ 261.648.225đ.
Ngày 31/12/2004, Nhà máy quy chế cơ khí xây dựng đã chuyển đổi doanh nghiệp thành Công ty Cổ phần Phú Diễn và chính Công ty này đang kế thừa toàn bộ cơ sở vật chất của nhà máy quy chế cơ khí xây dựng theo quy định của Chính phủ tại NQ 187 ngày 16/11/2004 ở khoản 2 điều 10 và điều 12 đã nêu các khoản phải trả doanh nghiệp phải huy động các nguồn vốn để thanh toán, các khoản nợ đến hạn, trước khi cổ phần hoá, hoặc tự thoả thuận với chủ nợ để xử lý hoặc chuyển đổi thành vốn góp cổ phần. Nhưng ở đây Công ty Cổ phần Phú Diễn chưa thực hiện đúng với chủ nợ. Song tại bản định giá giá trị doanh nghiệp của nhà máy có khoản nợ của bà Lực. Báo cáo tài chính năm 2004 và 2005 Công ty Cổ phần Phú Diễn vẫn thể hiện khoản nợ còn phải trả cho bà Lực. Tại biên bản ngày 15/9/2005 giữa tổng Công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam và Công ty Cổ phần Phú Diễn đã xác nhận và cam kết công nợ của cá nhân và các doanh nghiệp, Công ty Cổ phần Phú Diễn phải có trách nhiệm thanh toán trả, văn bản này đại diện Công ty Cổ phần Phú Diễn đã ký đóng dấu xác nhận.
Mặt khác, Công ty Cổ phần Phú Diễn đã bán cổ phần cho các cổ đông và các cổ đông đã mua hết cổ phần của Công ty Cổ phần Phú Diễn, đương nhiên là đã mua cả nợ của Công ty như luật doanh nghiệp đã quy định và thực tế Công ty Cổ phần Phú Diễn đã và đang hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính hàng năm phải gửi cho cơ quan thẩm quyền của nhà nước trong đó có Chi cục thuế đều có khoản nợ của bà Lực cụ thể năm 2005 Công ty vẫn xác nhận báo cáo khoản nợ này. Vì thế nay ông Thân chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cho rằng Công ty Cổ phần Phú Diễn không biết khoản nợ này và không có trách nhiệm trả nợ cho bà Lực là không có cở sở pháp luật. Bởi vậy Hội đồng xét xử xét thấy buộc Công ty Cổ phần Phú Diễn phải thanh toán trả bà Lực toàn bộ số nợ trên. Tại đơn khởi kiện bổ sung và tại phiên toà bà Lực yêu cầu Công ty phải thanh toán lãi chậm trả cho bà. Vấn đề này thấy rằng trong hợp đồng 2 bên ký kết không quy định, bên vi phạm thời hạn thanh toán phải chịu lãi suất chậm trả, nhưng đối chiếu với luật xây dựng quy định tại điều 81 quá thời hạn 12 tháng kể từ khi nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng thì phải chịu trách nhiệm về sự chậm thanh toán và phải bồi thường thiệt hại do hậu quả của việc chậm thanh toán, quy định này phù hợp với điều 474, 475 Luật dân sự năm 2005 đã quy định. Vì thế bên vi phạm thời hạn thanh toán là Công ty Cổ phần Phú Diễn phải có trách nhiệm thanh toán khoản lãi do chậm trả cho khoản tiền nợ trên, cho bà Lực theo lãi suất chậm trả của Ngân hàng nhà nước quy định. Còn như bà Lực yêu cầu Công ty Cổ phần Phú Diễn phải trả lãi là 1,2% tháng cho bà. Vấn đề này Hội đồng xét xử xét thấy trong hợp đồng không quy định mức phạt do chậm thanh toán. Vì thế nay có tranh chấp Toà án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật để tính lãi chậm trả này theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước
0,065% x 150% :100%= 0,975%tháng
nhân với số tiền gốc ra số lãi phải trả là 70.154.430đ. Cộng tiền gốc 261.648.225đ và lãi 70.154.430đ, tổng cộng là 331.802.655đ Công ty Cổ phần Phú Diễn phải trả cho bà Lực.
Công ty Cổ phần Phú Diễn phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử Toà án thành phố Hà Nội
Quyết định
Căn cứ điều 29, 58, 60, 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Căn cứ điều 81 luật xây dựng. Điều 474, 475 Bộ luật dân sự năm 2005. NQ 01 ngày 31/3/2005 Uỷ ban thẩm phán Toà án Tối cao. NĐ 70CP ngày 12/6/1997 của Chính phủ quy định về án lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Lực. Buộc Công ty Cổ phần Phú Diễn do ông Đinh Văn Thân đại diện phải có trách nhiệm thanh toán trả cho bà Vũ Thị Lực 331.802.655đ (ba trăm ba mươi mốt triệu tám trăm linh hai nghìn sáu trăm năm lăm đồng) trong hợp đồng xây dựng số 110 ngày 20/10/2001.
2. Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
Công ty Cổ phần Phú Diễn phải chịu án phí kinh tế sơ thẩm 12.954.000đ bà Vũ Thị Lực được lấy lại dự phí đã nộp là 2.000.000đ (Hai triệu đồng) tại biên lai số 000358 ngày 31/01/2005 ở đội thi hành án Từ Liêm - Hà Nội.
Sau khi án có hiệu lực pháp luật bên phải thi hành không thanh toán thì phải chịu lãi suất chậm trả do Ngân hàng nhà nước quy định
Án xử công khai sơ thẩm có mặt các đương sự và các đương sự trong vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
|