Khoản 1 Điều 645, Bộ luật dân sự 2005, thời hiệu khởi kiện về thừa kế:
“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình, hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”
Hết thời hạn này, người được thừa kế không có quyền khởi kiện nữa (Theo Khoản 1, Điều 159,Luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật Tố tụng Dân sự 2011). Song, thời gian 10 năm này không phải lúc nào cũng được tính liên tục.Tại Điều 161, Bộ luật dân sự 2005, quy định các khoản thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, tức là khoảng thời gian xảy ra các sự kiện sau đây:
- “Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.”
Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, ví dụ như thiên tai, bệnh dịch, chiến tranh...
Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình, ví dụ như tai nạn, ốm đau đến mức mất đi khả năng nhận thức...
- Chưa tìm được người đại diện, chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác mà không thể tiếp tục đại diện đượctrong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Như đã nói ở trên, quyền khởi kiện về tranh chấp di sản thừa kế chỉ tồn tại trong 10 năm, kể từ ngày mở thừa kế, nhưng không phải trong mọi trường hợp đều áp dụng quy định trên. Tại Mục 2.4, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định về hai trường hợp không tính thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, đó là:
- Trường hợp có tài sản chung, tức là trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà những người được thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế; Hoặc sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Nếu có tranh chấp, hoặc có yêu cầu về việc chia thừa kế, Tòa án sẽ giải quyết như sau:
Nếu người chết có để lại di chúc.....
Nếu không có di chúc, mà các đồng thừa kế tự thỏa thuận với nhau về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ, bất cứ lúc nào có yêu cầu từ phía người thừa kế.
Nếu không có di chúc và cũng không có thoả thuận giữa những người thừa kế về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì khi một trong những người thừa kế có yêu cầu về việc chia khối tài sản chung đó, việc chia này sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
vậy theo mình bạn nên bàn bạc với họ để chia phần thừa kế của ông bạn, còn phần của bà bạn thì ko fai chia bạn nhé. chúc bạ và gd luôn hạnh phúc