HỢP ĐỒNG TẶNG CHO CÓ HIỆU LỰC KHI NÀO?
Bạn phamthanhhuu viết:
Điều 466 Bộ luật dân sự không nói rõ “nhận tài sản” là nhận tài sản về mặt pháp lý hay thực tế nhận tài sản, mặt khác, Điều 446 Bộ luật dân sự quy định, hợp đồng tặng cho là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù còn bên tặng cho đồng ý nhận. Theo “Dương Anh Sơn, Bàn về bản chất pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2008” thì “đồng ý nhận” được nói đến trong điều 465 Bộ luật dân sự có thể là đồng ý nhận tài sản ngay tức thì và cũng có thể đồng ý nhận tài sản vào thời điểm nào đó trong tương lai. Và tôi hoàn toàn đồng ý với cách hiểu này. Nhưng một số tác giả cho rằng “nhận tài sản” được nói đến trong điều 466 là nhận tài sản thực tế.
Theo tôi biết: Tại Điều 163 BLDS 2005 thì: "Tài sản bao gồm tiền, vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản"; Như vậy thuật ngữ " nhận tài sản" tại Điều 446 BLDS bao hàm nhận vật (thực tế nhận tài sản) và nhận quyền (nhận tài sản về mặt pháp lý).
Luật không quy định hợp đồng nào là hợp đồng ưng thuận hay hợp đồng thực tế, sự phân biệt chỉ mang tính chất tương đối:
vd: Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng thực tế nếu tài sản không phải đăng ký QSH, nên "nhận tài sản" là nhận vật (nhận thực tế); Nhưng nếu tài sản phải đăng ký QSH thì đó là hợp đồng ưng thuận, nên "nhận tài sản" là nhận quyền (nhận về mặt pháp lý)
Hợp đồng tặng cho tài sản có mục đích là nhằm xác lập QSH tài sản cho bên được tặng cho, cho nên đối với tài sản phải đăng ký thì việc hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu lực từ thời điểm hợp đồng được giao kết dưới một hình thức luật định (vd: công chứng, chứng thực,... Lý do là để bảo đảm tính trung thực của việc cam kết, năng lực và căn cước của các bên được xác định một cách chắc chắn hơn và việc thành lập hợp đồng có công chứng, chứng thực cho phép thực hiện sự đăng ký QSH theo quy định của pháp luật)
Thuật ngữ "nhận tài sản" trong pháp luật nước ta đã bao hàm nhận vật (nhận thực tế tài sản) và nhận quyền (nhận tài sản về mặt pháp lý) đã được áp dụng trong luật Việt nam ngay cả thời kỳ mà BLDS 1996 chưa ra đời ( thời kỳ pháp luật chưa có quy định về tài sản phải đăng ký): Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01-7-1991:
Điều 7. Tặng cho nhà ở giữa cá nhân với cá nhân
1. Trong trường hợp không có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì bên được tặng cho phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu.
2. Trong trường hợp có tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì giải quyết như sau:
a) Nếu bên được tặng cho đã nhận nhà ở, thì nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của bên được tặng cho và bên được tặng cho phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;
b) Nếu bên được tặng cho chưa nhận nhà ở, thì hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
3. Trong trường hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng tặng cho nhà ở đã hoàn tất mà nhà ở chưa được giao cho bên được tặng cho, thì bên tặng cho phải giao nhà ở đó cho bên được tặng cho trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày bên được tặng cho có yêu cầu bằng văn bản, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Điều 7 Nghị quyết 58/1998 NQ-UBTVQH như sau:
5. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.
Khi đã xác định được quan hệ giữa các bên là quan hệ tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn tất, thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án giải quyết theo quy định tại Điều 7 của Nghị quyết số 58/1998. Khi giải quyết loại tranh cháp này cần chú ý một số điểm sau đây:
a) Đối với loại hợp đồng tặng cho nhà ở không có điều kiện mà bên được tặng cho đã nhận nhà ở, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, thì Toà án công nhận hợp đồng và cho phép bên được tặng cho nhà ở làm thủ tục chuyển quyền sở hữu; nếu bên được tặng cho chưa nhận nhà ở và cũng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà ở, thì Toà án tuyên bố hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ.
b) Trong trường hợp hợp đồng tặng cho nhà ở có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện đầy đủ, thì tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
- Nếu bên được tặng cho đã nhận nhà ở nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, thì Toà án công nhận nhà ở đó thuộc quyền sở hữu của bên được tặng cho;
- Nếu bên được tặng cho chưa nhận nhà ở và chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, thì Toà án tuyên bố hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ bỏ. Trong trường hợp này, nếu bên được tặng cho có yêu cầu giải quyết về các điều kiện đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì Toà án giải quyết cả yêu cầu này.
- Nếu thủ tục chuyển quyền sở hữu để thực hiện hợp đồng tặng cho nhà ở đã hoàn tất mà nhà ở chưa giao cho bên được tặng cho, thì Toà án buộc bên tặng cho phải giao nhà ở đó cho bên được tặng cho trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày bên được tặng cho có yêu cầu bằng văn bản.
Trên đây là ý kiến chủ quan của tôi, mong các bạn góp ý để làm sáng tỏ vấn đề: HỢP ĐỒNG TẶNG CHO TÀI SẢN CÓ HIỆU LỰC TỪ LÚC NÀO?
Kính chào.