Trợ cấp thất nghiệp là một phúc lợi xã hội về bảo hiểm đối với người lao động (NLĐ) đang không có việc làm. Nhờ vào tiền đóng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) mà NLĐ có thể hỗ trợ được phần nào trong khoảng thời gian khó khăn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định dù NLĐ đã đóng đủ số năm mà bảo hiểm quy định nhưng vẫn không thể nhận được trợ cấp thất nghiệp. Vậy đó là những trường hợp nào mà NLĐ không được nhận trợ cấp?
NLĐ không được nhận trợ cấp thất nghiệp khi nào?
Căn cứ Điều 49 Luật Việc làm 2013 quy định điều kiện hưởng BHTN, theo đó quy định 09 trường hợp mà NLĐ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp như sau:
Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm 2013 đang đóng BHTN sẽ không được hưởng trợ cấp thất nghiệp trong trường hợp:
(1) NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật:
Trong trường hợp này, NLĐ không những nhận được trợ cấp thất nghiệp mà còn phải bồi thường hợp đồng lao động do vi phạm những cam kết đã ký.
(2) Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng:
Theo nguyên tắc chung thì mỗi trợ cấp chỉ được tính cùng lúc một lần vì thế trường hợp mà NLĐ đã được trợ cấp sức khỏe hoặc đã nhận lương hưu thì không cần phải nhận thêm trợ cấp thất nghiệp.
(3) Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an:
Trong thời gian tham gia phục vụ tại quân ngũ thì NLĐ không thể nhận được trợ cấp thất nghiệp vì theo chế độ của quân nhân thì sẽ nhận được nhiều trợ cấp, phụ cấp khi tham gia.
(4) Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên:
BHTN chỉ trợ cấp cho NLĐ đang tìm kiếm việc làm trường hợp NLĐ đi học từ 1 năm trở lên thì không có nhu cầu này.
(5) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc:
Đây là một điều kiện ngăn chặn NLĐ vi phạm các quy định pháp luật và trái đạo đức xã hội đang được giáo dưỡng tại các cơ sở và được chu cấp tại các cơ sở này.
(6) Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù:
Khi NLĐ đang bị tạm giam hoặc chấp hành phạt tù thì đã mất đi quyền được hưởng các phúc lợi xã hội.
(7) Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng:
Trường hợp NLĐ ra nước ngoài trong một khoảng thời gian dài thì được rút BHXH một lần vì thế không cần phải nhận BHTN.
(8) Người lao động chết:
Đối tượng tham gia BHTN chết thì người thân của người này sẽ được nhận các trợ cấp khác theo quy định để đảm bảo quyền lợi của người tham gia.
(9) NLĐ không nộp hồ sơ hưởng TCTN trong vòng ba tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động.
Điều kiện cơ bản để NLĐ được hưởng BHTN là phải làm hồ sơ trong thời gian 03 tháng nộp tại trung tâm dịch vụ việc làm kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động. Nếu ngoài 03 tháng mà không nộp hồ sơ, NLĐ sẽ mất quyền lợi.
Bảo lưu trợ cấp thất nghiệp
Trong trường hợp phát sinh bởi lý do nào đó mà NLĐ không thể tiếp tục đóng BHTN trong một khoản thời gian nhất định thì NLĐ có thể bảo lưu bảo hiểm theo khoản thời gian đóng BHTN tại Điều 45 Luật Việc làm 2013 như sau:
Thời gian đóng BHTN để xét hưởng trợ cấp là tổng các khoảng thời gian đã đóng BHTN liên tục hoặc có thể không liên tục.
Và được cộng dồn từ khi bắt đầu đóng cho đến khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà chưa hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Theo quy định trên thì NLĐ có thể đóng không liên tục tiền BHTN, qua đó số tiền mà NLĐ không thể nhận được vẫn được bảo lưu ở đó cho đến khi NLĐ nhận được việc làm mới và tiếp tục tham gia.
Sau khi chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp, thời gian đóng BHTN trước đó của NLĐ không được tính để hưởng trợ cấp nữa cho lần tiếp theo.
Ngoài ra, thời gian đóng BHTN cho lần hưởng tiếp theo được tính lại từ đầu, trừ trường hợp chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Lưu ý: Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp không được tính để hưởng trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về viên chức.
Trên đây là 09 trường hợp mà NLĐ không được hưởng trợ cấp BHTN vì trái nguyên tắc và quy định của pháp luật bảo hiểm. Ngoài ra, NLĐ có thể bảo lưu số tiền đóng bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi của mình.