Ngày 28/8/2024 vừa qua, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn 3821/TCT-KT về việc chấn chỉnh việc dùng mạng xã hội trong cơ quan đơn vị.
(1) Yêu cầu công chức thuế không dùng mạng xã hội trong giờ làm việc
Tại Công văn 3821/TCT-KT, Tổng cục Thuế nhận định, mạng xã hội là công cụ hữu hiệu để mọi người liên lạc với nhau, chia sẻ thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả, thuận tiện.
Tuy nhiên, nếu sử dụng không đúng cách sẽ gây ra những hệ lụy khó lường đối với cá nhân, cơ quan tổ chức nơi người dùng mạng xã hội công tác.
Đơn cử là thời gian vừa qua, Tổng cục Thuế có tiếp nhận một số phản ánh liên quan đến việc công chức thuế đăng thông tin chưa phù hợp lên mạng xã hội.
Do đó, để tăng cường ý thức chấp hành quy định trong việc dùng mạng xã hội của công chức, viên chức, người lao động toàn ngành, Tổng cục Thuế yêu cầu các đồng chí Cục trưởng Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng các Vụ/đơn vị thuộc Tổng cục Thuế thực hiện các việc sau:
- Quán triệt đến toàn thể công chức, viên chức, người lao động toàn ngành thực hiện nghiêm túc Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội ban hành kèm theo Quyết định 847/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Đề nghị toàn thể công chức, viên chức, người lao động toàn ngành Thuế phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu khi dùng mạng xã hội. Không dùng mạng xã hội trong giờ làm việc, không đăng tải các thông tin liên quan đến danh mục bí mật nhà nước, công việc của cơ quan mà chưa được Thủ trưởng đơn vị cho phép lên mạng xã hội. Đặc biệt cần thận trọng rà soát kỹ nội dung trước khi đăng tải thông tin lên mạng xã hội đảm bảo phải phù hợp với Bộ quy tắc ứng xử.
- Áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm tăng cường kỷ luật, ý thức tuân thủ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khi dùng mạng xã hội. Đề cao trách nhiệm, vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị trong công tác chỉ đạo, tuyên truyền và thực hiện.
Theo đó, Tổng cục thuế đề nghị các đồng chí Cục trưởng Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Thủ trưởng các Vụ/đơn vị thuộc Tổng cục Thuế nghiêm túc thực hiện và khẩn trương triển khai chỉ đạo nêu trên tại đơn vị mình.
Trường hợp phát hiện có sai phạm cần nghiêm túc xem xét kiểm điểm trách nhiệm của cá nhân có liên quan.
(2) Hành vi đăng tin sai sự thật bị phạt bao nhiêu tiền?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP được sửa đổi bởi khoản 37 Điều 1 Nghị định 14/2022/NĐ-CP, hành vi vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội sẽ bị xử phạt như sau:
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:
+ Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
+ Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc;
+ Cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn;
+ Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc;
+ Cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu;
+ Quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm;
+ Cung cấp, chia sẻ hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia;
+ Cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm.
- Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, người vi phạm còn bị buộc phải thực hiện biện pháp khắc phục là gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP.