“2.3.
...
Trường hợp uỷ thác xuất khẩu hàng hóa, khi xuất hàng giao cho cơ sở nhận uỷ thác, cơ sở có hàng hóa uỷ thác xuất khẩu sử dụng Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ kèm theo Lệnh điều động nội bộ. Khi hàng hóa đã thực xuất khẩu có xác nhận của cơ quan hải quan, căn cứ vào các chứng từ đối chiếu, xác nhận về số lượng, giá trị hàng hóa thực tế xuất khẩu của cơ sở nhận uỷ thác xuất khẩu, cơ sở có hàng hóa uỷ thác xuất khẩu lập hóa đơn GTGT để kê khai nộp thuế, hoàn thuế GTGT hoặc hóa đơn bán hàng. Cơ sở nhận uỷ thác xuất khẩu sử dụng hóa đơn GTGT hoặc hóa đơn bán hàng để xuất cho khách hàng nước ngoài.”
“3. Sửa đổi, bổ sung điểm a, d, đ và e khoản 8 Điều 11 Thông tư số 156/2013/TT-BTC như sau:
...
đ) Khai thuế đối với người nộp thuế có hoạt động xuất, nhập khẩu uỷ thác hàng hóa:
Người nộp thuế nhận xuất, nhập khẩu ủy thác hàng hóa không phải khai thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa nhận xuất, nhập khẩu ủy thác (trong trường hợp hợp đồng ủy thác không có nội dung ủy thác về thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT thay cho đối tượng ủy thác) nhưng phải khai thuế giá trị gia tăng đối với thù lao ủy thác được hưởng.”
Theo các quy định trên, có thể thấy rằng công ty nhận ủy thác xuất khẩu hàng hóa chỉ phải xuất hóa đơn cho bên mua nước ngoài chứ không phải kê khai thuế GTGT đối với hàng hóa nhận xuất khẩu theo ủy thác. Bên nhận ủy thác chi phải kê khai thuế GTGT đối với thù lao ủy thác.
Việc kê khai thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu sẽ do bên doanh nghiệp có hàng hóa xuất khẩu thực hiện (trừ trường hợp giữa bên ủy thác và bên nhận ủy thác có thỏa thuận ủy thác nghĩa vụ kê khai thuế GTGT).