Tranh chấp đất đai

Chủ đề   RSS   
  • #516469 03/04/2019

    Lehoangt919

    Sơ sinh

    Kiên Giang, Việt Nam
    Tham gia:03/04/2019
    Tổng số bài viết (10)
    Số điểm: 485
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 7 lần


    Tranh chấp đất đai

    Xin nhờ các anh chị tư vấn: nhà em cho người quen mượn đất ở cho đến nay được 20 năm, nay người đó muốn chiếm luôn phần đất mượn ở. Nên gia đình em muốn thưa kiện để lấy lại phần đất đó.. Như vậy gia đình em có lấy lại được đất ko ạ?

     
    6723 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

2 Trang <12
Thảo luận
  • #516990   19/04/2019

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1121 lần
    Moderator

    nguyenkhanhchinh viết:

    Xin hỏi anh TranTamDuc và "luật sư tương lai", nhờ hai anh giải thích thêm chút:

    Cái "Giấy viết tay" mà hai anh đề cập ở trên, anh Đức thì bảo có giá trị pháp lý, Lawyerin...thì bảo không có giá trị pháp lý.

    Em muốn biết góc nhìn của mỗi anh trong việc đánh giá chứng cứ này như thế nào?

    Có phải cách hiểu của Lawyerin...là giấy này vô hiệu không?

    Như tôi đã nói và chứng minh, Luật qui định đất đai và QSDĐ là tài sản, Luật cũng qui định đối với tài sản không tiêu hao thì được cho mượn và hợp đồng cho mượn tài sản luật không qui định phải lập thành văn bản có công chứng/chứng thực, do đó giấy tay cho mượn đất trong trường hợp này chính là Hợp đồng cho mượn đất, nó có giá trị pháp lý vì không trái với qui định của pháp luật.

    Bởi Hợp đồng này có giá trị pháp lý (có hiệu lực) nên buộc các bên phải tuân thủ, nếu trong hợp đồng có ghi thời hạn mượn đất và đã hết thời hạn đó mà hai bên không có thỏa thuận gì mới thì bên mượn đất phải thực hiện nghĩa vụ trả lại đất cho bên cho mượn, nếu trong hợp đồng cho mượn đất không ghi thời hạn cho mượn đất thì bên cho mượn phải thông báo cho bên mượn đất một thời hạn hợp lý phải trả lại đất (điều 278 BLDS 2015), bên mượn đất phải trả đất mượn trong thời hạn này. 

    Trường hợp bên mượn không thực hiện nghĩa vụ của mình đã thỏa thuận trong hợp đồng (nghĩa vụ trả đất mượn) thì bên cho mượn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên mượn đất phải thực hiện nghĩa vụ trong Hợp đồng mượn đất mà 2 bên đã  thỏa thuận, cụ thể là yêu cầu bên mượn đất phải thực hiện nghĩa vụ trả lại đất mượn vì đã hết thời hạn cho mượn đất theo Hợp đồng và gần như là chắc chắn bên cho mượn đất sẽ thắng kiện.

    Hợp đồng cho mượn đất là đối tượng tranh chấp chứ không phải là chứng cứ.

    Trân trọng.

     

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (21/04/2019)
  • #516993   19/04/2019

    lawyerinthefuture
    lawyerinthefuture
    Top 150
    Male
    Lớp 3

    An Giang, Việt Nam
    Tham gia:29/10/2016
    Tổng số bài viết (545)
    Số điểm: 4441
    Cảm ơn: 14
    Được cảm ơn 207 lần
    Moderator

    Tôi không muốn nêu cơ sở pháp lý vì nêu dài dòng sợ người cần tư vấn cũng không hiểu. Nên tôi mới chốt lại ý kiến của mình để bạn ấy hiểu thông qua cách hiểu của tôi từ những quy định của pháp luật.

    Bạn xem cơ sở pháp lý về Giấy viết tay có hiệu lực hay không?

    Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự

    1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

    Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

    2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

    Đây, bạn nói hợp đồng có thể xac lập bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi. Nhưng trường hợp này đối tượng của hợp đồng này là BĐS cho nên, phải tuân thủ hình thức bằng văn bản có công chứng, chứng thực và phải đăng ký quyền sở hữu. Trong khi đó, Giấy viết tay này có đáp ứng điều kiện này chưa? (Nói thêm, nếu bạn nói sẽ được công nhận vì đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ, nhưng trường hợp này cũng chưa có xác định là bên có nghĩa vụ đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ hay chưa). Trước mắt, tôi chỉ muốn khẳng định theo quan điểm của mình là Giấy viết tay này là vô hiệu khi có tranh chấp và khi bên cho mượn có Giấy CN QSDĐ.

    Và đây nữa, Điều 500. Hợp đồng về quyền sử dụng đất

    Hợp đồng về quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó người sử dụng đất chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất hoặc thực hiện quyền khác theo quy định của Luật đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng với người sử dụng đất.

    Đồng ý là bạn nói hợp đồng được xác lập thông qua thỏa thuận của các bên nhưng không trái đạo đức và pháp luật (pháp luật không cấm), nhưng bạn xem hợp đồng về quyền sử dụng đất có hợp đồng nào gọi là hợp đồng cho mượn đất không? Giả sử nếu có, thì đây: Điều 502. Hình thức, thủ tục thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất

    1. Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan.

    Chp dù hợp đồng cho mượm đất có được chấp nhận thì cũng đảm bảo được về mặt hình thức theo quy định của PL Đất đai và Dân sự không?

    Cập nhật bởi lawyerinthefuture ngày 19/04/2019 08:59:43 CH

    Trang facebook: " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí " sẽ giúp các bạn giải đáp những vướng mắc pháp lý xoay quanh cuộc sống.

    Hãy ghé thăm trang khi bạn gặp phải một vấn đề vướng mặc nào đó .Đừng tiếc gì 1 like và 1 share trang facebook:

    " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí ".

     
    Báo quản trị |  
  • #516994   19/04/2019

    lawyerinthefuture
    lawyerinthefuture
    Top 150
    Male
    Lớp 3

    An Giang, Việt Nam
    Tham gia:29/10/2016
    Tổng số bài viết (545)
    Số điểm: 4441
    Cảm ơn: 14
    Được cảm ơn 207 lần
    Moderator

    Giả sử ngắn gọn, bạn có mãnh đất, có sổ đỏ, bạn viết tay cho luôn phần đất này cho ông A, sau đó có tranh chấp, ông A nói bạn đã cho đất ông ấy và có Giấy viết tay chứng minh. Thì bạn nghĩ mãnh đất này thuộc quyền sử dụng của ai? Cái này tôi giả sử là cho luôn chứ nói chi là viết tay cho mượn đất.

    Trang facebook: " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí " sẽ giúp các bạn giải đáp những vướng mắc pháp lý xoay quanh cuộc sống.

    Hãy ghé thăm trang khi bạn gặp phải một vấn đề vướng mặc nào đó .Đừng tiếc gì 1 like và 1 share trang facebook:

    " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí ".

     
    Báo quản trị |  
  • #516996   19/04/2019

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1121 lần
    Moderator

     

    lawyerinthefuture viết:

     

    Giả sử ngắn gọn, bạn có mãnh đất, có sổ đỏ, bạn viết tay cho luôn phần đất này cho ông A, sau đó có tranh chấp, ông A nói bạn đã cho đất ông ấy và có Giấy viết tay chứng minh. Thì bạn nghĩ mãnh đất này thuộc quyền sử dụng của ai? Cái này tôi giả sử là cho luôn chứ nói chi là viết tay cho mượn đất.

     

     

    Cái này ngắn gọn nên tôi trả lời trước. Bạn có vẻ đã bắt đầu chịu khó nghiên cứu pháp luật, tiếc là vẫn chưa hiểu đúng, dù sao như vậy vẫn đáng ghi nhận. Trong trường hợp nêu trên của bạn thì đất đã thuộc quyền sử dụng của ông A, bởi tôi có QSDĐ, tôi viết giấy tay cho tặng QSDĐ đó cho ông A là vi phạm hình thức hợp đồng cho tặng QSDĐ, thế nhưng tôi đã giao toàn bộ đất cho ông A quản lý, sử dụng, tức tôi đã thực hiện 100% nghĩa vụ cho đất của mình trong khi điều 129 BLDS 2015 qui định chỉ cần tôi đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ thôi là Tòa đã phải công nhận giao dịch cho đất này có hiệu lực. Cho đất mà còn có hiệu lực vậy thì huống hồ gì chỉ cho mượn đất phải không bạn ? Sao lại chưa xác định được 2/3 nghĩa vụ ? Chủ topic đã nói là họ đã giao toàn bộ diện tích đất cho bên mượn từ lâu rồi mà, thậm chí bên mượn đất còn lấy đất mượn mà bán từ năm 2007 đó, như vậy bên cho mượn đã thực hiện 100% nghĩa vụ trong giao dịch rồi bạn nhé.

    Hy vọng từ bài viết này của tôi, bạn sẽ tự điều chỉnh lại được toàn bộ quan điểm của mình ở chủ đề này. Nếu bạn vẫn không tự điều chỉnh được thì tôi sẽ tiếp tục giúp bạn.

    Cập nhật bởi TranTamDuc.1973 ngày 19/04/2019 09:46:36 CH

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    ntdieu (20/04/2019) nguoinhaque009 (21/04/2019)
  • #517001   20/04/2019

    lawyerinthefuture
    lawyerinthefuture
    Top 150
    Male
    Lớp 3

    An Giang, Việt Nam
    Tham gia:29/10/2016
    Tổng số bài viết (545)
    Số điểm: 4441
    Cảm ơn: 14
    Được cảm ơn 207 lần
    Moderator

    Bạn chứng mình được đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ nhanh thật. Mà chính xác hay không cũng chưa xác định.

    Vậy trong trường hợp, mẹ anh A có Giấy CN QSDĐ và làm giấy viết tay tặng cho anh A (anh A đã kết hôn), không nói là tặng cho riêng. Sau đó, anh A và vợ ly hôn, tranh chấp tài sản chung, vậy xin hỏi phần đất mẹ anh A tặng cho anh A  có lấy lại được không?

    Trang facebook: " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí " sẽ giúp các bạn giải đáp những vướng mắc pháp lý xoay quanh cuộc sống.

    Hãy ghé thăm trang khi bạn gặp phải một vấn đề vướng mặc nào đó .Đừng tiếc gì 1 like và 1 share trang facebook:

    " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí ".

     
    Báo quản trị |  
  • #517002   20/04/2019

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1121 lần
    Moderator

     

    lawyerinthefuture viết:

     

    Bạn chứng mình được đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ nhanh thật. Mà chính xác hay không cũng chưa xác định.

    Vậy trong trường hợp, mẹ anh A có Giấy CN QSDĐ và làm giấy viết tay tặng cho anh A (anh A đã kết hôn), không nói là tặng cho riêng. Sau đó, anh A và vợ ly hôn, tranh chấp tài sản chung, vậy xin hỏi phần đất mẹ anh A tặng cho anh A  có lấy lại được không?

     

     

    Nếu đúng bạn là "Luật sư tương lai" thì tôi khuyên bạn sai phải vui vẻ, nhanh chóng nhận sai để tiến bộ. Con người ai cũng có cái sai và cái chưa biết nên không phải ngại. Chủ topic nói họ đã giao phần đất ngang 10 mét dài 40 mét để cho mượn cả 20 năm nay, giờ hỏi việc đòi lại, như vậy chắc chắn họ đã thực hiện 100% nghĩa vụ cho mượn đất chứ đừng nói 2/3, cớ sao bạn còn chống chế "mà chính xác hay không cũng chưa xác định" ?

    Trường hợp trên bạn không nói bà Mẹ đã giao đất cho anh A hay chưa nên tôi tư vấn cả 2 tình huống, nếu chỉ viết giấy cho nhưng thực tế chưa giao đất thì người Mẹ lấy lại được do hợp đồng cho tặng đất vi phạm về hình thức và chưa thực hiện nghĩa vụ, còn như đã giao đất, tức đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ thì hợp đồng cho tặng đất có hiệu lực, bà mẹ không lấy đất lại được.

    Nếu anh A đã được cấp GCN đối với phần đất Mẹ anh ta cho và anh A đồng ý cho vợ cùng đứng tên trên GCN đó thì sự việc sẽ phức tạp hơn. Bạn cần thì cứ nói, tôi sẽ tư vấn cụ thể về trường hợp này. Tôi nói thêm, không phải lúc nào kết quả giải quyết tranh chấp về đất đai cũng đúng pháp luật, vậy mới có "án oan" ngày càng nhiều.  

    Cập nhật bởi TranTamDuc.1973 ngày 21/04/2019 09:22:44 SA

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (21/04/2019)
  • #517092   23/04/2019

    lawyerinthefuture
    lawyerinthefuture
    Top 150
    Male
    Lớp 3

    An Giang, Việt Nam
    Tham gia:29/10/2016
    Tổng số bài viết (545)
    Số điểm: 4441
    Cảm ơn: 14
    Được cảm ơn 207 lần
    Moderator

    TranTamDuc.1973 viết:

     

    lawyerinthefuture viết:

     

    Bạn chứng mình được đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ nhanh thật. Mà chính xác hay không cũng chưa xác định.

    Vậy trong trường hợp, mẹ anh A có Giấy CN QSDĐ và làm giấy viết tay tặng cho anh A (anh A đã kết hôn), không nói là tặng cho riêng. Sau đó, anh A và vợ ly hôn, tranh chấp tài sản chung, vậy xin hỏi phần đất mẹ anh A tặng cho anh A  có lấy lại được không?

     

     

    Nếu đúng bạn là "Luật sư tương lai" thì tôi khuyên bạn sai phải vui vẻ, nhanh chóng nhận sai để tiến bộ. Con người ai cũng có cái sai và cái chưa biết nên không phải ngại. Chủ topic nói họ đã giao phần đất ngang 10 mét dài 40 mét để cho mượn cả 20 năm nay, giờ hỏi việc đòi lại, như vậy chắc chắn họ đã thực hiện 100% nghĩa vụ cho mượn đất chứ đừng nói 2/3, cớ sao bạn còn chống chế "mà chính xác hay không cũng chưa xác định" ?

    Trường hợp trên bạn không nói bà Mẹ đã giao đất cho anh A hay chưa nên tôi tư vấn cả 2 tình huống, nếu chỉ viết giấy cho nhưng thực tế chưa giao đất thì người Mẹ lấy lại được do hợp đồng cho tặng đất vi phạm về hình thức và chưa thực hiện nghĩa vụ, còn như đã giao đất, tức đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ thì hợp đồng cho tặng đất có hiệu lực, bà mẹ không lấy đất lại được.

    Nếu anh A đã được cấp GCN đối với phần đất Mẹ anh ta cho và anh A đồng ý cho vợ cùng đứng tên trên GCN đó thì sự việc sẽ phức tạp hơn. Bạn cần thì cứ nói, tôi sẽ tư vấn cụ thể về trường hợp này. Tôi nói thêm, không phải lúc nào kết quả giải quyết tranh chấp về đất đai cũng đúng pháp luật, vậy mới có "án oan" ngày càng nhiều.  

    Tôi muốn hỏi như vậy là để giải quyết tình huống khi ly hôn hai vợ chồng tranh chấp phần đất này, để xác định được phần đất này là tài sản chung trong thời kì hôn nhân hay tài sản riêng. Bạn trả lời như vậy cũng y hệt trường hợp Giấy viết tay trên, bạn vẫn không để ý đến quy định, đối với BĐS thì phải đăng ký mới được xem là tài sản của người được tặng cho. 

    Trang facebook: " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí " sẽ giúp các bạn giải đáp những vướng mắc pháp lý xoay quanh cuộc sống.

    Hãy ghé thăm trang khi bạn gặp phải một vấn đề vướng mặc nào đó .Đừng tiếc gì 1 like và 1 share trang facebook:

    " Hỗ Trợ Pháp Lý Miễn Phí ".

     
    Báo quản trị |  
  • #517025   21/04/2019

    nguoinhaque009
    nguoinhaque009

    Male
    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/03/2011
    Tổng số bài viết (49)
    Số điểm: 595
    Cảm ơn: 361
    Được cảm ơn 10 lần


    Sẵn em nhờ anh TranTamDuc.1973 giải thích dùm luôn tại sao điều 129 Bộ luật dân sự hiện nay lại qui định là "...mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ....", đã một bên là được rồi sao lại còn "hoặc các bên" có phải là thừa hay không, lâu nay em cũng có chút bệnh sĩ diện, thắc mắc chi tiết này không tự giải đáp được mà không dám hỏi ai sợ bị  chê "Luật sư tập sự" mà dở. Em chân thành cảm ơnạ

    Cập nhật bởi nguoinhaque009 ngày 21/04/2019 09:43:51 SA
     
    Báo quản trị |  
  • #517031   21/04/2019

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1121 lần
    Moderator

     

    nguoinhaque009 viết:

     

    Sẵn em nhờ anh TranTamDuc.1973 giải thích dùm luôn tại sao điều 129 BLDS hiện nay lại qui định là "...mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ....", đã một bên là được rồi sao lại còn "hoặc các bên" có phải là thừa hay không, lâu nay em cũng có chút bệnh sĩ diện, thắc mắc chi tiết này không tự giải đáp được mà không dám hỏi ai sợ bị  chê "Luật sư tập sự" mà dở. Em chân thành cảm ơn ạ

    Cám ơn bạn đã tin tưởng. Điều 129 Bộ luật dân sự 2015 qui định "giao dịch dân sự vô hiệu....", tức qui định chung cho Hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn phương vì giao dịch  dân sự bao gồm Hợp đồng dân sự và Hành vi pháp lý đơn phương (Đ 116 BLDS 2015). Thực tế vấn đề bạn hỏi đang tồn tại hai quan điểm :

    Quan điểm 1 : hành vi pháp lý đơn phương và hợp đồng dân sự đơn vụ chỉ có 1 bên có nghĩa vụ nên Điều 129 BLDS 2015 qui định như vậy để "một bên" áp dụng cho hành vi pháp lý đơn phương và hợp đồng dân sự đơn vụ, còn "các bên" áp dụng cho hợp đồng dân sự song vụ. Ví dụ, đối với hợp đồng cho tặng tài sản (đơn vụ) thì chỉ có bên cho tặng có nghĩa vụ giao tài sản do đó chỉ cần bên cho tặng đã giao tài sản là hợp đồng có hiệu lực dù vi phạm hình thức, còn đối với hợp đồng mua bán tài sản (song vụ) thì bên bán có nghĩa vụ giao tài sản, bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền, cho nên cả 2 bên đều phải thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ của mình thì hợp đồng vi phạm hình thức mới có hiệu lực.

    Quan điểm 2 : Luật qui định "giao dịch dân sự .... mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ....." nên bất kỳ giao dịch dân sự nào, miễn có 1 bên hoặc các bên tham gia đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ thì giao dịch đó có hiệu lực dù vi phạm hình thức, tức đối với hợp đồng song vụ cũng chỉ cần 1 bên thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ là hợp đồng đó có hiệu lực dù vi phạm hình thức.

    Việc tranh cãi chưa có hồi kết, cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Cá nhân tôi thì theo quan điểm 1.

    Trân trọng.

    Cập nhật bởi TranTamDuc.1973 ngày 22/04/2019 10:06:24 CH

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn TranTamDuc.1973 vì bài viết hữu ích
    nguoinhaque009 (22/04/2019)
  • #517084   22/04/2019

    nguoinhaque009
    nguoinhaque009

    Male
    Mầm

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:17/03/2011
    Tổng số bài viết (49)
    Số điểm: 595
    Cảm ơn: 361
    Được cảm ơn 10 lần


    Xin cám ơn anh TranTamDuc.1973 rất nhiều, bi giờ thì em đã hiểu rõ rồi, chúc anh luôn mạnh khỏe, tham gia diễn đàn thường xuyên, viết nhiều bài viết hay, bổ ích.

     
    Báo quản trị |  
  • #517097   23/04/2019

    TranTamDuc.1973
    TranTamDuc.1973
    Top 50
    Male
    Lớp 8

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:26/03/2016
    Tổng số bài viết (1355)
    Số điểm: 10622
    Cảm ơn: 178
    Được cảm ơn 1121 lần
    Moderator

    Bài trước bạn hỏi "xin hỏi phần đất mẹ anh A tặng cho anh A  có lấy lại được không?", bây giờ bạn lại nói "Tôi muốn hỏi như vậy là để giải quyết tình huống khi ly hôn hai vợ chồng tranh chấp phần đất này, để xác định được phần đất này là tài sản chung trong thời kì hôn nhân hay tài sản riêng", như vậy là khả năng diễn đạt của bạn không tốt, muốn hỏi 1 đằng nhưng trình bày 1 nẻo chứ tôi không trả lời sai. Tuy nhiên, tôi cũng có viết thêm "Nếu anh A đã được cấp GCN đối với phần đất Mẹ anh ta cho và anh A đồng ý cho vợ cùng đứng tên trên GCN đó thì sự việc sẽ phức tạp hơn. Bạn cần thì cứ nói, tôi sẽ tư vấn cụ thể về trường hợp này." chứng tỏ tôi hiểu bạn rất rõ.

    Đúng là điều 503 BLDS 2015 và K3 Đ 188 LĐĐ 2013 qui định việc cho tặng QSDĐ phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Tuy nhiên, điều 129 BLDS 2015 là một biệt lệ của giao dịch dân sự (bao gồm cả Hợp đồng cho tặng QSDĐ) vi phạm về hình thức. Điều 129 BLDS 2015 qui định chỉ cần một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ là Tòa công nhận hiệu lực của Hợp đồng chứ không qui định gì thêm. Cho nên, khi đang bàn về Hợp đồng cho tặng QSDĐ vi phạm qui định hình thức mà bạn lại cho rằng "đối với BĐS thì phải đăng ký mới được xem là tài sản của người được tặng cho." để phản bác chứng tỏ bạn chưa có sự nghiên cứu toàn diện hoặc chưa hiểu rõ về pháp luật có liên quan tới vấn đề này.

    Cập nhật bởi TranTamDuc.1973 ngày 23/04/2019 10:08:16 SA

    VĂN PHÒNG LUẬT SƯ QUANG THƯỢNG - 0907 829 557

    231/3A đường Chiến Lược, KP 18, Phường Bình Trị Đông, Quận Bình Tân, TPHCM

     
    Báo quản trị |