Tờ khai đăng ký kết hôn có phải là căn cứ để xác định thời điểm có tài sản chung?

Chủ đề   RSS   
  • #614981 08/08/2024

    motchutmoingay24
    Top 75
    Lớp 12

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:16/03/2024
    Tổng số bài viết (1129)
    Số điểm: 20288
    Cảm ơn: 22
    Được cảm ơn 451 lần


    Tờ khai đăng ký kết hôn có phải là căn cứ để xác định thời điểm có tài sản chung?

    Đã tổ chức lễ cưới và có tờ khai đăng ký kết hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn, khi một bên vợ hoặc chồng giao kết hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì có xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng không?

    (1) Tờ khai đăng ký kết hôn là gì?

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Hộ tịch 2014, khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn.

    Như vậy, Tờ khai đăng ký kết hôn là một mẫu giấy tờ chính thức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, được sử dụng để ghi nhận thông tin cá nhân của hai người nam và nữ khi quyết định tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn. Tờ khai này có vai trò quan trọng trong việc xác lập mối quan hệ vợ chồng hợp pháp theo quy định của pháp luật.

    Tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 04/2020/TT-BTP có quy định mẫu tờ khai đăng ký kết hôn như sau:

    Các thông tin có trong tờ khai đăng ký kết hôn gồm:

    - Thông tin cá nhân của hai bên: Họ và tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, dân tộc, nơi thường trú, thông tin về giấy tờ tùy thân (chứng minh nhân dân, hộ chiếu...).

    - Lời cam kết: Xác nhận rằng hai bên tự nguyện kết hôn, không vi phạm quy định pháp luật

    - Ngày tháng năm đăng ký: Thời điểm hai bên chính thức nộp tờ khai và được cơ quan nhà nước tiếp nhận.

    Theo đó, các thông tin trên tờ khai đăng ký kết hôn sẽ được sử dụng làm căn cứ để thực hiện các thủ tục như đăng ký kết hôn.

    (2) Thời điểm xác định tài sản chung của hai vợ chồng

    Theo khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Theo đó, khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định rằng, thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.

    Như vậy, theo các quy định trên, thời điểm xác định vợ chồng có tài sản chung là thời điểm tài sản đó được tạo lập ra trong thời kỳ hôn nhân, tức là trong khoảng thời gian đã tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt kết hôn.

    (3) Tờ khai đăng ký kết hôn có phải là căn cứ để xác định thời điểm có tài sản chung?

    Với trường hợp đã nêu ra ở đầu bài viết, vậy liệu việc khai tờ khai đăng ký kết hôn có phải là căn cứ để xác định thời điểm cả hai đã chính thức bước vào thời kỳ hôn nhân không?

    Hiện nay, pháp luật chỉ quy định thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt kết hôn, do đó, nếu chỉ mới khai tờ khai đăng ký kết hôn, có tổ chức lễ cưới, thì cũng chưa hoàn toàn đúng với ý chí của luật về thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân.

    Tuy nhiên, tại Dự thảo Án lệ 17/2024 có một trường hợp tương tự như vậy, cụ thể, vợ chồng ông E và bà C ly hôn thuận tình, tuy nhiên khi chia tài sản chung, bà C đã phản đối việc chia thửa đất mà bà đứng tên và cho rằng thời điểm đó cả hai chưa đăng ký kết hôn nên không phải là tài sản chung.

    Tuy nhiên, theo Dự thảo Án lệ 17/2024, Tòa án Giám đốc thẩm đã căn cứ vào việc trên thực tế ông E và bà C đã có chung sống với nhau từ trước khi đăng ký kết hôn, đã có tờ khai đăng ký kết hôn và đã tổ chức lễ cưới. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng xác nhận khi chuyển nhượng là chuyển nhượng cho vợ, chồng ông E và bà C.

    Do đó, Hội đồng Thẩm phán xác định ngày ông E và bà C đã có tờ khai đăng ký kết hôn và đã tổ chức lễ cưới là sự kiện bắt đầu thời kỳ hôn nhân, đồng thời xem xét nội dung lời khai của bà N là người chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà C để xác định thửa đất này là tài sản chung của vợ chồng ông E và bà N là có căn cứ.

    >>> Xem Dự thảo Án lệ 17/2024 tại đâyhttps://cdn.thuvienphapluat.vn/uploads/danluatfile/2024/8/08/document%20(1).pdf

    Như vậy, trường hợp cả hai đã có Tờ khai đăng ký kết hôn, có thời gian sống chung với nhau và đã tổ chức lễ cưới thì thời điểm được tính là bắt đầu thời kỳ hôn nhân là từ lúc cả hai khai Tờ khai đăng ký kết hôn.

    Tuy nhiên, có thể thấy, Tờ khai đăng ký kết hôn là một căn cứ quan trọng nhưng chưa đủ để xác định thời điểm có tài sản chung của vợ chồng. Việc xác định này cần dựa trên nhiều yếu tố khác và đòi hỏi phải có sự xem xét kỹ lưỡng của cơ quan có thẩm quyền hoặc luật sư, tùy theo từng trường hợp, tình huống mà Hội đồng Thẩm phán sẽ có nhận định khác nhau.

     
    231 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn motchutmoingay24 vì bài viết hữu ích
    admin (07/11/2024)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận