Theo quy định tại Điều 3 Thông tư 31/2015/TT-BCA, Sau khi đã nhận được Giấy phép lao động hoặc Giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động thì doanh nghiệp nộp hồ sơ đề nghị cấp thị thực cho người lao động nước ngoài đến Cục Quản lý xuất nhập cảnh gần nhất; bao gồm những giấy tờ sau:
1. Công văn đề nghị xét duyệt, kiểm tra nhân sự người nước ngoài nhập cảnh (Mẫu NA2 ban hành kèm theo Thông tư 04/2015/TT-BCA);
2. Bản sao có chứng thực giấy phép lao động hoặc giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động đã được cấp;
3. Các giấy tờ chứng minh nếu thuộc một trong các đối tượng được miễn thị thực
- Thông thường, người lao động nước ngoài sẽ nhận thị thực tại cơ quan có thẩm quyền cấp thị thực của Việt Nam ở nước ngoài; nhưng nếu người nước ngoài đó xuất phát từ nước không có cơ quan có thẩm quyền cấp thị thực của Việt Nam hoặc trước khi đến Việt Nam phải đi qua nhiều nước, thì doanh nghiệp có thể đề nghị cấp thị thực tại cửa khẩu quốc tế.
- Nếu chấp thuận cho việc nhập cảnh thì trong thời hạn từ 03 đến 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị cấp thị thực, Cục Quản lý xuất nhập cảnh sẽ có văn bản trả lời đến doanh nghiệp.
- Sau khi nhận được văn bản trả lời của Cục Quản lý xuất nhập cảnh, doanh nghiệp thông báo cho người nước ngoài để họ làm thủ tục nhận thị thực tại cơ quan có thẩm quyền cấp thị thực của Việt Nam ở nước ngoài hoặc tại cửa khẩu, căn cứ theo nội dung ghi trong văn bản trả lời của Cục.
Ngoài ra, trước khi thực hiện thủ tục mời, bảo lãnh để người lao động nước ngoài được cấp thị thực vào Việt Nam, doanh nghiệp phải gửi hồ sơ thông báo với Cục Quản lý xuất nhập cảnh theoo quy định tại Điều 16 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam 2014, bao gồm các giấy tờ sau:
1. Văn bản thông báo về việc bảo lãnh cấp thị thực vào Việt Nam;
2. Bản sao có chứng thực giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
3. Văn bản giới thiệu con dấu, chữ ký của người có thẩm quyền của doanh nghiệp (Mẫu NA16 ban hành kèm theo Thông tư 04/2015/TT-BCA).
Việc thông báo này thực hiện khi lần đầu doanh nghiệp có phát sinh nhu cầu bảo lãnh cho người lao động nước ngoài và chỉ khi có sự thay đổi thông tin đã thông báo nêu trên thì mới thực hiện thông báo lại để cập nhật, bổ sung.