"Điều 4. Thu nhập được miễn thuế
...
7. Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ."
"Điều 4. Thu nhập được miễn thuế
...
7. Thu nhập từ lãi tiền gửi tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, thu nhập từ lãi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ."
"Điều 12. Sửa đổi, bổ sung Điều 3 Thông tư số 111/2013/TT-BTC như sau:
...
3. Sửa đổi, bổ sung điểm n khoản 1 Điều 3
“n) Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe; tiền bồi thường tai nạn lao động; tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; các khoản bồi thường Nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của pháp luật. Cụ thể trong một số trường hợp như sau:
n.1) Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe là khoản tiền mà cá nhân nhận được do tổ chức bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe trả cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm đã ký kết. Căn cứ xác định khoản bồi thường này là văn bản hoặc quyết định bồi thường của tổ chức bảo hiểm hoặc tòa án và chứng từ trả tiền bồi thường."
Từ những quy định trên có thể thấy, thu nhập từ lãi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ do tổ chức bảo hiểm nhân thọ chi trả là khoản thu nhập miễn thuế thu nhập cá nhân.
Về mức lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và mức bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ không cố định. Nó sẽ phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên với từng mức chi phí khác nhau. Vì mỗi công ty bảo hiểm sẽ xây dựng cho mình những nguyên tắc bồi thường riêng nên hồ sơ và trình tự, thủ tục nhận lãi hay bồi thường bảo hiểm sẽ là khác nhau đối với từng hợp đồng bảo hiểm cụ thể. Do đó, khi tham gia thỏa thuận, các bên cần cẩn trọng khi đàm phán các điều khoản trong hợp đồng hoặc phụ lục hợp đồng.
Tóm lại, thu nhập từ bảo hiểm nhân thọ là khoản thu nhập không phải chịu thuế thu nhập cá nhân.