Ảnh minh họa: Rút kinh nghiệm xét xử vụ án dân sự
Thông qua kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án dân sự “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thừa kế tài sản và hủy kết quả cá biệt”, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành thông báo cho VKSND địa phương để rút kinh nghiệm chung khi kiểm sát giải quyết các vụ án tương tự.
1. Nội dung vụ án
Cha bà Phạm Thị A là ông Phạm M có 03 người vợ là Nguyễn Thị C, Đinh Thị S và Đinh Thị L. Ông Phạm M và bà Nguyễn Thị C sinh được 01 người con là anh Phạm D; ông Phạm M và bà Đinh Thị S sinh được 04 người con là Phạm Thị A, Phạm Thị B, Phạm Văn T và Phạm Thị G; ông Phạm M và bà Đinh Thị L sinh được 02 người con là Phạm Thị H và Phạm Thị N. Ngoài 03 người vợ và 07 người con nêu trên, ông Phạm M không có vợ, con nào khác.
Trong quá trình chung sống với bà Đinh Thị L, ông Phạm M và bà Đinh Thị L có tạo lập được khối tài sản chung là nhà và đất với tổng diện tích 4195m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử (GCNQSD) đất số G688851 do UBND huyện cấp ngày 04/01/1996. Sau khi ông Phạm M chết, lợi dụng việc quản lý sử dụng khối di sản nêu trên, bà Đinh Thị L và 02 con là Phạm Thị H, Phạm Thị N đã kê khai gian dối, gạt bỏ chị em của chị ra khỏi hàng thừa kế của ông Phạm M và lập văn bản phân chia thừa kế (số công chứng 56, quyển số 07/TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng Công chứng lập ngày 08/01/2015) để nhường quyền thừa kế của ông Phạm M lại cho chị Phạm Thị N. Theo đó, ngày 14/01/2015 Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện đã chỉnh lý tại trang sau của GCNQSD đất số G688851 lập ngày 14/01/2015 chuyển dịch toàn bộ quyền sử dụng đất cho chị N. Việc làm của chị N đã ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế.
Do đó, chị Phạm Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố văn bản phân chia tài sản thừa kế công chứng số 56, quyển số 07/TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng Công chứng lập ngày 08/01/2015 vô hiệu; hủy phần chỉnh lý tại trang sau của GCNQSD đất số G688851 do Văn phòng Đăng ký đất đai lập ngày 14/01/2015 đối với việc chuyển dịch quyền sử dụng đất cho chị Phạm Thị N; chia di sản thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản thừa kế do ông Phạm M để lại theo GCNQSD đất số G688851 và hủy GCNQSD đất số G688851 cấp ngày 14/01/2015 cho chị Phạm Thị N.
2. Quá trình giải quyết vụ án
Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2019/DS-ST ngày 25/11/2019, TAND tỉnh đã quyết định:
Xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị T về việc “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thừa kế tài sản và yêu cầu hủy quyết định cá biệt” đối với bị đơn bà Phạm Thị N.
Tuyên bố văn bản phân chia tài sản thừa kế số công chứng 56, quyển số 07/TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng huyện lập ngày 08/01/2015 vô hiệu; hủy phần chỉnh lý tại trang sau của GCNQSD đất số G688851 đối với việc chuyển dịch quyền sử dụng đất cho bà Phạm Thị N.
Giao toàn bộ diện tích đất ở còn lại là 441,7m2 tại thửa 131/1 cùng toàn bộ đất lúa, màu bao gồm thửa 131/3 diện tích 656,8m2; thửa 21 diện tích 507,5m2; thửa 282 diện tích 600m2; thửa 71 diện tích 658,9m2; thửa 17 diện tích 82,5m2 theo GCNQSD đất số G688851 cùng toàn bộ cây lưu niên có trên đất cho bà Phạm Thị N được sử dụng và bà N có trách nhiệm thối trả giá trị tài sản bằng tiền cho các đương sự nêu trên. Tổng giá trị tài sản bà Phạm Thị N được nhận là 166.111.000 đồng.
Ngày 02/12/2019, nguyên đơn là chị Phạm Thị A có đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại vụ án để phân chia di sản thừa kế của ông Phạm M cho chị em của chị bằng hiện vật (đất) để làm nhà thờ ông bà, cha mẹ.
Ngoài ra, trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, TAND cấp cao tại Đà Nẵng nhận được “Đơn đề nghị xem xét” của ông Đinh E và của bà Đinh Thị S cùng có nội dung:
Ông Đinh E và bà Đinh Thị S là con cụ Đinh Z (sinh năm 1914, chết năm 1986) và cũng là em ruột của bà Đinh Thị L. Thửa đất số 131/1 diện tích 1096m2 loại đất thổ cư và thửa đất số 131/3 diện tích 988m2 loại đất màu, tại tờ bản đồ số 05 theo hồ sơ 299/TTg có nguồn gốc của cha ông để lại cho bà Đinh Thị L quản lý, sử dụng. Khoảng năm 1983, ông Phạm M về chung sống với bà Đinh Thị L đã đứng ra kê khai, đăng ký theo Nghị định 64/CP của Chính phủ và được cấp GCNQSD đất đối với hai thửa đất trên. Khi đó cụ Đinh Z chết không để lại di chúc; những người thừa kế chưa tiến hành khai nhận, phân chia di sản thừa kế do cụ Đinh Z để lại nên việc cấp GCNQSD đất số G688851 cho hộ ông Phạm M là không đúng pháp luật. Do đó, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm để triệu tập thêm ông Đinh E, bà Đinh Thị S với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; hủy GCNQSD đất số G688851 cấp cho hộ ông Phạm M và chia di sản thừa đối với phần đất của ông Đinh Z để lại theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự phúc thẩm số 114/2020/DSPT ngày 17/6/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2019/DS-ST của TAND tỉnh, xem xét vụ án “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thừa kế tài sản và hủy định cá biệt” giữa nguyên đơn là chị Phạm Thị A, bị đơn là chị Phạm Thị N; giao hồ sơ vụ án cho TAND cấp tỉnh để giải quyết, xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
3. Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Theo cung cấp của UBND xã tại Biên bản xác minh ngày 21/3/2018 trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thì ông Phạm M sinh năm 1940 có 03 người vợ và 07 người con. Trong đó, người vợ thứ nhất là bà Nguyễn Thị C sinh được 01 người con là anh Phạm D; người vợ thứ hai là bà Đinh Thị S sinh được 04 người con là Phạm Thị A, Phạm Thị L, Phạm Văn T và Phạm Thị G; người vợ thứ ba là bà Đinh Thị L có 3 con riêng với người chồng trước là anh Nguyễn Y, chị Nguyễn Thị Thanh J, Nguyễn Thị Thanh K và 02 người con chung với ông Phạm M là chị Phạm Thị H, Phạm Thị N.
Theo GCNQSD đất số G688851 và kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản các ngày 29/01/2018, 30/01/2018 và 05/6/2019 thì hộ ông Phạm M được quyền sử dụng 06 thửa đất gồm có:
Thửa số 131/1, tờ bản đồ số 5, diện tích 1096m2, loại đất thổ cư; thửa đất số 131/3, tờ bản đồ số 5, diện tích 998m2, loại đất màu (diện tích đo đạc thực tế 656,8m2); thửa đất số 17, tờ bản đồ số 5, diện tích 150m2, loại đất màu (diện tích thực tế 82,5m2); thửa đất số 71, tờ bản đồ số 5, diện tích 588m2, loại đất lúa (diện tích thực tế 658,9m2); thửa đất số 282, tờ bản đồ số 8, diện tích 619m2, loại đất lúa màu (diện tích thực tế 600,2m2); thửa đất số 21, tờ bản đồ số 8, diện tích 744m2, loại đất lúa (diện tích thực tế 507,5m2).
Tại Văn bản số 317/UBND-TNMT ngày 01/4/2019, UBND huyện đã xác định:
Đối với thửa đất số 131/1 và thửa đất số 131/3: Theo hồ sơ 229/TTg, vị trí các thửa đất nêu trên thuộc phạm vi thửa 395 tờ bản đồ 04 diện tích 591m2, loại đất hoang do UBND xã quản lý và thửa 396 tờ bản đồ số 04 diện tích 3102m2; trong đó, ông Đinh O (anh ruột bà Đinh Thị L) đăng ký diện tích 430m2 loại đất màu, diện tích còn lại là đất màu do Hợp tác xã Nông nghiệp Tam Giang quản lý. Các thửa đất này nguyên trước đây (trước năm 1975) là thuộc của ông Đinh Z sau khi qua đời giao lại cho bà Đinh Thị L và con trai bà là anh Nguyễn T quản lý sử dụng. Sau khi ông Phạm M về sinh sống với bà Đinh Thị L, vì ông Phạm M là đàn ông nên đã đứng tên chủ hộ gia đình để kê khai, đăng ký theo Nghị định 64/CP của Chính phủ đối với thửa 131/1 và thửa 131/3. Do đó, việc ông Phạm M đứng tên kê khai đăng ký đất đai và được cấp GCNQSD đất ngày 04/01/1996 đối với các thửa đất số 131/1 và 131/3 là không đúng quy định của pháp luật vì các thửa đất nêu trên có nguồn gốc của cha bà Đinh Thị L để lại cho bà Đinh Thị L trước khi ông Phạm M đến sống chung với bà Đinh Thị L.
Đối với các thửa đất số 17, 71, 21 và 282: Theo hồ sơ đăng ký kê khai theo Chỉ thị 299/TTg là đất sản xuất nông nghiệp do Hợp tác xã nông nghiệp quản lý. Khi triển khai thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ, ông Phạm M đứng ra kê khai và được UBND huyện cấp GCNQSD cho hộ ông Phạm M. Theo sổ Hộ khẩu của gia đình bà Đinh Thị L do Công an xã T xác lập ngày 10/7/1998 thì hộ bà Đinh Thị L có 03 nhân khẩu gồm bà Đinh Thị L (chủ hộ) và hai con Phạm Thị H, Phạm Thị N; không có tên ông Phạm M. Tuy nhiên, theo cung cấp của UBND huyện thì do ông Phạm M về chung sống với bà Đinh Thị L từ khoảng năm 1983 và ông Phạm M đứng tên kê khai, đăng ký nên có đủ cơ sở xác định các thửa đất trên được Nhà nước giao cho 04 thành viên trong hộ gia đình.
Trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm, chị Phạm Thị N là bị đơn và anh Nguyễn T (là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến bà Đinh Thị L) đều khẳng định các thửa đất trên là của ông bà ngoại để lại, không đồng ý yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn.
Như vậy, để xác định nguồn gốc hai thửa đất 131/1 và 131/3 nêu trên có đúng là tài sản của cụ Đinh Z hay không; cụ Đinh Z trước khi chết có tặng cho bà Đinh Thị L và anh Nguyễn T, hay là cho một mình bà Đinh Thị L hay không; cũng như việc xác định phần diện tích ông Đinh O kê khai đăng ký, phần đất do UBND xã quản lý có liên quan như thế nào đối với phần đất bà Đinh Thị L sử dụng, được ông Phạm M kê khai, đăng ký và được cấp GCNQSD đất năm 1996 thì cần thiết phải lấy lời khai của ông Đinh O, anh Nguyễn T và UBND xã. Thông qua đó, xác định và đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người làm chứng theo quy định tại khoản 4 Điều 68 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa lấy lời khai của những người này để làm rõ, mà cho rằng bà Đinh Thị L tự nguyện đưa vào khối tài sản chung với ông Phạm M là chưa có đủ căn cứ.
Đối với ý kiến kiến nghị của ông Đinh Y và bà Đinh Thị S nhận thấy: Ông Đinh Y và bà Đinh Thị S là con cụ Đinh Z và cũng là em ruột của bà Đinh Thị L. Thừa đất số 131/1 và 131/3 đã được UBND huyện xác định có nguồn gốc của cha ông để lại cho cụ Đinh Z, sau đó cụ Đinh Z giao cho bà Đinh Thị L và con trai là anh Nguyễn T quản lý, sử dụng; khoảng năm 1983, ông Phạm M về chung sống với bà Đinh Thị L đã đứng ra kê khai, đăng ký theo Nghị định 64/CP của Chính phủ và được cấp GCNQSD đất đối với hai thửa đất trên là không đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm, các đương sự đều không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho việc cụ Đinh Z đã tặng cho riêng bà Đinh Thị L toàn bộ thửa đất số 131/1 và 131/3 nói trên.
Trong quá trình tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm chưa thực hiện đầy đủ việc thu thập chứng cứ làm rõ nguồn gốc thửa đất số 131/1 và 131/3 để xác định phần ông Phạm M được hưởng đối với các thửa đất này; đồng thời, phát sinh tình tiết mới chưa đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, Tòa án cấp phúc thẩm không thể thực hiện bổ sung, khắc phục được. Do đó, cần hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết, xét xử lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
Theo Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao
Cập nhật bởi MinhPig ngày 19/08/2020 08:11:30 SA