Em có ý kiến về bà viết như sau ạ:
1. Thời điểm tính thời hiệu truy cứu TNHS không phải từ khi phạm tội hoàn thành, mà tính từ ngày tội phạm được thực hiện (Khoản 3 điều 27, BLHS).
Bởi lẽ, BLHS quy định về các giai đoạn phạm tội với trách nhiệm hình sự khác nhau:
- GĐ chuẩn bị phạm tội: Chỉ phải chịu TNHS đối với một số loại tội phạm được QĐ ở khoản 2, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể (K2. điều 57)
- GĐ phạm tội chưa đạt: Chịu TNHS về phạm tội chưa đạt. Mức hình phạt ở giai đoạn này là: Ko quá 20 năm đối với các tội có khung hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình; Khống quá 3/4 mức hình phạt so với điều luật quy định đối với tội phạt tù có điều kiện (khoản 3, điều 57)
- GĐ phạm tội hoàn thành: Chịu TNHS theo quy định của điều luật.
-Tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội: Được miễn TNHS đối với tội định phạm; Tuy nhiên nếu đủ Cấu thành một tội khác thì truy cứu TNHS theo tội đó.
Như vậy, việc xác định được giai đoạn phạm tội cũng như TNHS ở các giai đoạn này có ý nghĩa lớn cho việc xác định thời hiệu truy cứu TNHS đôi với từng loại tội phạm.
2. Không phải tất cả loại tội phạm đều áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS. Điều 28 BLHS quy định về một số loại tội phạm:
- Các tội xâm phạm ANQG qđ tại chương VIII- BLHS (K1.điều 28)
- Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người, tội phạm chiến tranh qđ tại chương XXVI- BLHS (Khoản 2-điều 28)
- Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của Bộ luật này; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của BLHS (Khoản 3)
Trên đây là ý kiến bổ sung của em về vấn đề thời hiệu truy cứu TNHS.
Em xin cảm ơn!