Câu hỏi:
Cho tôi hỏi thẩm quyền giao đất vào thời điểm năm 1985?
Câu trả lời:
Đối với thẩm quyền giao đất vào thời điểm năm 1985, khoản 2 mục V của Quyết định 201-CP năm 1980 về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước do Hội Đồng Chính phủ ban hành. Cụ thể:
“V- VIỆC GIAO ĐẤT VÀ THU HỒI ĐẤT
…
2. Thẩm quyền về giao đất để sử dụng:
a) Việc giao đất nông nghiệp, đất thổ cư nông thôn và đô thị trên 2 héc ta hoặc phải di dân trên 20 hộ để lấy đất làm việc khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định; từ 2 héc ta trở xuống hoặc phải di dân từ 20 hộ trở xuống do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.
Đối với nông trường, lâm trường, trạm, trại, công trình xây dựng…đã có nhiệm vụ thiết kết (trong đó nói rõ diện tích và vị trí địa điểm đất được sử dụng, được các cấp có thẩm quyền xét duyệt và các công trình theo tuyến (giao thông, thủy lợi…) đã có quy hoạch được cấp có thẩm quyền xét duyệt thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thực Trung ương căn cứ vào nhiệm vụ thiết kế và quy hoạch đó mà quyết định vào việc giao đất.
b) Trường hợp các xã lấy đất nông nghiệp để xây dựng các công trình của xã, của hợp tác xã (kể cả để khai thác đất làm gạch, ngói) hoặc làm nhà cho dân ở, thì Ủy ban nhân dân xã lập kế hoạch hàng năm, nếu diện tích cần thiết chung cho tất cả các công trình trong một năm từ 2 héc ta trở xuống do Ủy ban nhân dân huyện xét và trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chuẩn y, trên 2 héc ta do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xét và đề nghị Thủ tướng Chính phủ chuẩn y.
c) Việc giao đất đồi núi, đất hầm mỏ để sử dụng vào các mục đích chuyên dùng từ 10 héc ta trở lên do Thủ tướng Chính phủ quyết định, dưới 10 héc ta do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định.
d) Việc giao đất, giao rừng cho hợp tác xã kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thực hiện theo đúng quyết định số 272/CP ngày 3-10-1977 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn thi hành số 20/TT-LB ngày 11-5-1978 của Liên Bộ Nông nghiệp – Lâm nghiệp.
Trường hợp phải phá rừng để lấy đất, dùng vào mục đích nông nghiệp hay chuyên dùng khác thì phải có thiết kế cụ thể do cơ quan có thẩm quyền duyệt đúng như quy định của pháp lệnh bảo vệ rừng, nghị quyết số 155-CP ngày 3-10-1973 của Hội đồng Chính phủ, chỉ thị số 137/TTg ngày 20-4-1979 của Thủ tướng Chính phủ, nếu phá rừng trên 20 héc ta do Hội đồng Chính phủ cho phép; từ 20 héc ta trở xuống do Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp cho phép.
đ) Việc giao đất để khai thác nguyên liệu, khoáng sản:
Căn cứ vào nhiệm vụ thiết kế và địa điểm khai thác được cấp có thẩm quyền phê chuẩn, cơ quan chủ quản công trình sẽ ký kết hợp đồng sử dụng đất có thời hạn với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, căn cứ vào hợp đồng nói trên, cơ quan quản lý ruộng đất tỉnh, thành phố sẽ giao đất từng đợt theo kế hoạch khai thác của cơ quan chủ quản công trình. Khai thác xong chỗ nào thì cơ quan chủ quản công trình phải trả lại chỗ đất ấy cho địa phương với trạng thái đất có thể dùng ngay vào sản xuất nông nghiệp hay vào mục đích khác.
e) Những quyết định về giao đất phải ghi rõ tên người hoặc cơ quan, tổ chức được phép sử dụng, diện tích, loại hạng, ranh giới khoảnh đất, mục đích và thời hạn sử dụng đất và những điều kiện đặc biệt khác nếu có”.