Căn cứ tại tiết b.6 điểm b khoản 2 Điều 2
Thông tư 111/2013/TT-BTC quy định các khoản phụ cấp, trợ cấp của người lao động:
“2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công
b) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp sau:
...
b.6) Trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, mức hưởng chế độ thai sản, mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thất nghiệp và các khoản trợ cấp khác theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội.”
=>> Như vậy trợ cấp người lao động bị ảnh hưởng bị covid được xem là trợ cấp khó khăn đột xuất vì vậy không tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân.
Tuy nhiên có phải mức trợ cấp nào cũng được không tính thuế thu nhập cá nhân hay không thì hiện chưa có quy định cụ thể về vấn đề này, nhưng có một công văn hướng dẫn của Cục thuế Hà Nội như sau:
"Trường hợp người sử dụng lao động hỗ trợ toàn bộ số tiền có được từ việc giảm đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động phòng, chống Covid - 19 theo quy định tại Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 thì khoản tiền hỗ trợ này không tính vào thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân của người lao động."
=>> Vậy khoản trợ cấp covid cho người lao động phải bằng toàn bộ số tiền có được từ việc giảm đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động phòng, chống Covid - 19 theo quy định tại Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg thì mới không tính vào thuế thu nhập cá nhân, còn nếu vượt quá sẽ phải tính vào thuế thu nhập cá nhân với phần vượt quá đó.