Xin cảm ơn phần trả lời của bạn
Bạn đang nhầm lẫn về lãi suất
Nội dung thỏa thuận lãi trong hợp đồng vay của Tôi bắt đầu là từ ngày 17/01/2020 đến ngày 31/12/2020 là 20%/năm
Ở đây Tôi đang thắc mắc tại sao Tòa Phúc Thẩm lại tính lãi suất từ ngày 31/12/2020 là ngày hết hạn trong hợp đồng của Tôi cho đến ngày xét xử Sơ Thẩm là ngày 06/12/2021 là 15%/năm
Và ở phần quyết đinh Tòa Phúc Thẩm lại ghi 1 câu, Tôi trích dẫn nguyên câu văn của Tòa Phúc Thẩm " Trường hợp Cty A chậm thực hiện nghĩa vụ giao tiền cho Tôi thì Cty A phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 468 của Bộ Luật dân sự là 20%/năm trên số tiền phải hoàn trả; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ Luật dân sự là 10%/năm"
Với câu này có nghĩa là từ ngày 06/12/2021, Tôi tiếp tục lại bị giảm lãi suất xuống 10%/năm
Tôi đang thắc mắc hợp đồng của Tôi là Hơp đồng vay có thỏa thuận lãi suất là 20%/năm. Tư nhiên sau mỗi lần Tòa xét xử Tôi lại bị giảm lãi suất
Điều này không đúng với tình thần của nghị quyết Nghị quyết 01/2019 HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LÃI, LÃI SUẤT, PHẠT VI PHẠM
Điều 13. Quyết định lãi, lãi suất trong bản án, quyết định của Tòa án
1. Khi giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, cùng với việc quyết định khoản tiền mà bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán cho bên được thi hành án thì Tòa án phải quyết định trong bản án hoặc quyết định (Phần quyết định) như sau:
a) Đối với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà các bên có thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
b) Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc khoản tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết đsịnh có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. “Mức lãi suất hai bên thỏa thuận” hướng dẫn tại khoản 1 điều này là mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc tại Tòa án. Trường hợp, các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất nợ quá hạn thì mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn.