Số tiền thu được hay số tiền dùng để đánh bạc làm căn cứ xem xét tội đánh bạc?

Chủ đề   RSS   
  • #602091 26/04/2023

    nguyenhoaibao12061999
    Top 25
    Dân Luật bậc 1

    Vietnam --> Hồ Chí Minh
    Tham gia:03/08/2022
    Tổng số bài viết (2261)
    Số điểm: 78451
    Cảm ơn: 100
    Được cảm ơn 2003 lần
    ContentAdministrators
    SMod

    Số tiền thu được hay số tiền dùng để đánh bạc làm căn cứ xem xét tội đánh bạc?

    Hiện nay, hành vi đánh bạc trái phép ngày càng đa dạng, quy mô và các hình thức hợp thức hóa tiền chơi cũng được phức tạp hơn trước rất nhiều. 
     
    Vì vậy khi xác định số tiền đánh bạc dùng làm căn cứ xem xét truy cứu hình sự tội đánh bạc cũng phải rất cẩn thận. Vậy khi truy cứu tội đánh bạc thì dựa trên số tiền thu được hay số tiền dùng để đánh bạc?
     
    so-tien-thu-duoc-hay-so-tien-dung-de-danh-bac-lam-can-cu-xem-xet-toi-danh-bac?
     
    1. Tội đánh bạc được hiểu ra sao?
     
    Tội đánh bạc được hiểu là hành vi chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật dưới bất kỳ hình thức nào, như: xóc đĩa, bầu cua, tổ tôm, tam cúc, số đề, cá cược, đá (chọi) gà, đua xe, cá cược ... một cách trái phép dù là hình thức trực tuyến hay trực tiếp. 
     
    Trong đó, người chơi đánh bạc sử dụng tiền có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ; hiện vật có thể là tài sản, như: ô tô, xe máy, nhà cửa, gia súc, hàng hóa để tham gia trò chơi cá cược bằng tiền hoặc tài sản.
     
    2. Căn cứ xác định số tiền đánh bạc dùng để truy cứu tội đánh bạc
     
    Căn cứ Công văn 136 /TANDTC-PC năm 2020 quy định đối với vụ án đánh bạc, Tòa án xem xét trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo để truy cứu trách nhiệm hình sự tội đánh bạc theo nguyên tắc xác định số tiền để đánh bạc như sau:
     
    Trường hợp này, tùy vào vụ việc cụ thể mà xác định trách nhiệm hình sự và mức hình phạt của các bị cáo. Cụ thể: 
     
    - Đối với trường hợp các bị cáo cùng đánh bạc với nhau (như đánh phỏm, đánh chắn, đánh liêng, đánh sâm...) thì căn cứ vào tổng số tiền thu trên chiếu bạc (tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc) để xem xét trách nhiệm hình sự.
     
    - Số tiền mỗi bị cáo dùng vào việc đánh bạc là một trong những căn cứ để Tòa án xem xét, đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm khi quyết định hình phạt đối với mỗi bị cáo.
     
    - Đối với trường hợp con bạc đánh với chủ bạc (như lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa...) thì việc xác định khung hình phạt và mức hình phạt phải căn cứ vào số tiền từng bị cáo dùng vào việc đánh bạc. 
     
    Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì việc chứng minh số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng.
     
    3. Xử phạt vi phạm hành chính đối hành vi đánh bạc
     
    Theo Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi đánh bạc trái phép như sau:
     
    - Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề.
     
    - Phạt tiền từ 01 triệu đồng đến 02 triệu đồng đối với những hành vi sau:
     
    + Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế, binh ấn độ 6 lá, binh xập xám 13 lá, tiến lên 13 lá, đá gà, tài xỉu hoặc các hình thức khác với mục đích được, thua bằng tiền, tài sản, hiện vật.
     
    + Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép.
     
    + Cá cược trái phép trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí hoặc các hoạt động khác.
     
    - Hình thức xử phạt bổ sung:
     
    + Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a và b khoản 3; các điểm b, c và d khoản 4 và khoản 5 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
     
    + Đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
     
    + Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
     
    Ngoài ra, còn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi đánh bạc online:
     
    Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1; khoản 2; các điểm a và b khoản 3; các điểm b, c và d khoản 4 và khoản 5 Điều 28 Nghị định 144/2021/NĐ-CP
     
    4. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đánh bạc
     
    Theo Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Bộ Luật Hình sự 2017) quy định về tội đánh bạc sẽ bị phạt tù theo các khung hình phạt sau:
     
    - Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với các hành vi sau:
     
    + Đối với người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng
     
    + Hoặc dưới 05 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015 này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 Bộ luật Hình sự 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
     
    Theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi Khoản 120 Điều 1 Bộ luật Hình sự 2017).
     
    - Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm phạm tội thuộc các trường hợp sau đây:
     
    + Có tính chất chuyên nghiệp.
     
    + Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên.
     
    + Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội.
     
    Điểm này được hướng dẫn bởi Công văn của Tòa án nhân dân tối cao như sau:
     
    Việc người phạm tội sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử khác như là phương tiện để liên lạc với nhau (ví dụ: nhắn tin qua điện thoại, qua email, zalo, viber.... để ghi số đề, lô tô, cá độ đua ngựa...) mà không hình thành nên các trò chơi được thua bằng tiền hoặc hiện vật trực tuyến.
     
    Thì không thuộc trường hợp “Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông và các phương tiện điện tử để phạm tội” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và điểm c khoản 2 Điều 322 của Bộ luật Hình sự (hướng dẫn bởi Công văn 196/TANDTC-PC năm 2018).
     
    + Tái phạm nguy hiểm.
     
    - Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
     
    1249 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn nguyenhoaibao12061999 vì bài viết hữu ích
    danusa (04/05/2023)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận