Quyết định số 26/2003/hđtp-hs ngày 06-11-2003 về vụ án hoàng thị hà cùng các bị cáo khác phạm tội "trộm cắp tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #264716 28/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4355 lần


    Quyết định số 26/2003/hđtp-hs ngày 06-11-2003 về vụ án hoàng thị hà cùng các bị cáo khác phạm tội "trộm cắp tài sản"

    Số hiệu

    26/2003/HĐTP-HS

    Tiêu đề

    Quyết định số26/2003/hđtp-hs ngày 06-11-2003 về vụ án hoàng thị hà cùng các bị cáo khác phạm tội "trộm cắp tài sản"

    Ngày ban hành

    06/11/2003

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    QUYẾT ĐỊNH SỐ26/2003/HĐTP-HS NGÀY 06-11-2003
    VỀ VỤ ÁN HOÀNG THỊ HÀ CÙNG CÁC BỊ CÁO KHÁC
    PHẠM TỘI "TRỘM CẮP TÀI SẢN"

    HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    .........

    Tại phiên toà ngày 06-11-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với các bị cáo:

    1Hoàng Thị Hà, sinh năm 1956; trú tại Đội 1, xã Minh Hạc, huyện Hạ Hoà tỉnh Phú Thọ; làm ruộng; con ông Hoàng Văn Tiếp và bà Nguyễn Thị Chê; có chồng và hai con.

    2. Hoàng Văn Chín, sinh năm 1961; trú tại xóm 3, xã Minh Hạc, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ; làm ruộng; con ông Hoàng Văn Tiếp và bà Nguyễn Thị Chê; có vợ và ba con.

    3. Phạm Thế Trường, sinh năm 1957; trú tại xóm 1, xã Minh Hạc, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ; làm ruộng; con ông Phạm Thế Sơ và bà Lại Thị Hoè (đã chết) có vợ và hai con.

    Trong vụ án còn có Nguyễn Tiến Hải, Hoàng Ngọc Tú, Hoàng Văn Toản,Tạ Văn Huệ và Hoàng Ngọc Sơn.

    NHẬN THẤY:

    1. Tháng 08-2000 Nguyễn Tiến Hải móc nối với Nguyễn Thuý Hoa và Hoàng Lâm Phong (ở Liên bang Nga) sang Pò Chài, Trung Quốc thực hiện việc kết nối các cuộc gọi điện thoại từ Nga về Việt Nam. Hoa, Hải thuê phòng 230l tại nhà nghỉ Thương Việt ở Pò Chài, Bằng Tường, Trung Quốc rồi về Việt Nam nhờ ông Nguyễn Gia Ban đứng tên thuê bao sử dụng hai máy điện thoại di động, sau đó mang sang Trung Quốc thực hiện việc chuyển tiếp các cuộc gọi từ Nga về Việt Nam.

    Do công việc nhiều nên Hải bàn với Hoa, Phong thuê Hoàng Thị Hà, Hoàng Văn Chín và Phạm Thế Trường cùng thực hiện kết nối điện thoại và trả tiền công mỗi người 2.000.000 đồng một tháng.

    Từ tháng 10-2000 đến tháng 06-2001 Nguyễn Tiến Hải, Hoàng Thị Hà, Hoàng Văn Chín, Phạm Thế Trường đã sử dụng 10 sim di động để chuyển tiếp trái pháp luật 292.796 phút điện thoại từ Nga về Việt Nam không qua sự kiểm soát cước quốc tế gây thiệt hại cho Nhà nước 1.268. 116.000 đồng.

    Tại Bản án hình sự sơ thẩm số95/HS-ST ngày 23-07-2002 Toà án nhân dân tỉnh  Lạng Sơn áp dụng khoản 1 Điều 138, các điểm b, h, p, q khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 phạt Nguyễn Tiến Hải 3 năm tù, Hoàng Thị Hà 2 năm tù, Hoàng Văn Chín 2 năm tù và Phạm Thế Trường 2 năm tù đều về tội trộm cắp tài sản. Buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường thiệt hại cho Nhà nước là 1.268.116.000 đồng.

    Sau khi xét xử sơ thẩm Hoàng Thị Hà, Hoàng Văn Chín, Phạm Thế Trường kháng cáo xin giảm hình phạt, các bị cáo khác không kháng cáo.

    Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 1647/HSPT ngày 30-10-2002 Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm đối với Hoàng Thị Hà, Phạm Thế Tường, Hoàng Văn Chín và kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét lại điều khoản áp dụng và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Tiến Hải, Hoàng Ngọc Tú, Hoàng Văn Toàn, Tạ Văn Huệ, Hoàng Ngọc Sơn, Hoàng Thị  Hà, Hoàng Văn Chín và Phạm Thế Trường.

    Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số24/HS-TK ngày 30-05-2003  Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ quyết định về áp dụng pháp luật và hình phạt của Bản án hình sự phúc thẩm số 1647/HSPT ngày 30-10-2002 và Bản án hình sự sơ thẩm số 95/HSST ngày 23-07-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đối với Hoàng Thị Hà, Hoàng Văn Chín và Phạm Thế Trường để xét xử sơ thẩm lại cho đúng pháp luật.

     (Đối với Nguyễn Tiến Hải, Hoàng Ngọc Tú, Hoàng Văn Toản, Tạ Văn Huệ và Hoàng Ngọc Sơn, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã có Kháng  nghị số23/HS-TK ngày 30-05-2003 để Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm).

    Tại phiên toà, đại điện Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Hành vi phạm tội của Hoàng Thị Hà, Hoàng Văn Chín và Phạm Thế Trường gây thiệt hại 1.268.116.000 đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, nhưng Toà án cấp sơ thẩm lại áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo là không đúng pháp luật và chỉ phạt các bị cáo từ 2 năm đến 3 năm tù là quá nhẹ, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm do các bị cáo đã thực hiện, không đề cao được tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Do không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng áp dụng điều khoản Bộ luật Hình sự về tội nặng hơn và tăng hình phạt đối với các bị cáo, nên Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên Bản án sơ thẩm và kiến nghị cấp giám đốc thẩm.

    Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 254 và Điều 256 Bộ luật Tố tụng Hình sự,

    QUYẾT ĐỊNH :

    Huỷ Quyết định về áp dụng điều khoản của Bộ luật Hình sự và hình phạt của Bản án hình sự phúc thẩm số 1647/HSPT ngày 30-10-2002 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án hình sự sơ thẩm số 95/HSST ngày 23-07-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đối với Hoàng Thị Hà, Hoàng Văn Chín và Phạm Thế Trường; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại cho đúng pháp luật. 
     

    Lý do huỷ Bản án sơ thẩm, phúc thẩm:

    Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 138 BLHS năm 1999 nhưng chỉ xử theo khoản 1 Điều 138 BLHS là không đúng pháp luật.

     

     
    3528 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận