Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tương và ông Nguyễn Hồng Quang

Chủ đề   RSS   
  • #265510 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tương và ông Nguyễn Hồng Quang

    Số hiệu

    39/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Tương và ông Nguyễn Hồng Quang

    Ngày ban hành

    18/08/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

       ….

    Ngày 18 tháng 8 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự tranh chấp quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơn:

    Ông Nguyễn Tương, sinh năm 1935.

    Bà Nguyễn Thị Loan, sinh năm l949.

    Đều trú tại số 451 đường Cách mạng, tổ 10, phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

    Bị đơn:

    Ông Nguyễn Hồng Quang, sinh năm 1920.

    Bà Võ Thị Hiền, sinh năm 1938.

    Đều trú tại số 04 Tô Vĩnh Diện, tổ3, phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 23-10-2003 và các lời khai của ông Nguyễn Tương, bà Nguyễn Thị Loan trong quá trình giỏi quyết vụ án thì: Giũa ông, bà và vợ chồng ông Nguyễn Hồng Quang, bà Võ Thị Hiền là bạn bè thân thiết, năm 1993 vợ chồng ông Quang có mượn của ông, bà 2 chỉ vảng 98%. Năm 1995 ông, bà đòi nợ 2 chỉ vàng nhưng vợ chồng ông Quang không có trả nên đã nhờ ông sang nhượng đất để lấy tiền trả nợ. Do muốn lấy lại số vàng đá cho mượn nên ông, bà đồng ý nhận chuyển nhượng lô đất của vợ chồng ông Quang tại số 04 đường Tô Vĩnh Diện, tổ 3 phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, có diện tích 7m mặt đường Tô Vĩnh Diện, mặt sau 5m, dài 20m với tổng diện tích là 120m2, trên có giêng nước và một số cây ăn trái với giá 45 chỉ vàng 98%. Ông, bà đã giao đủ cho ông Quang, bà Hiền 43 chỉ vàng cộng với 2 chỉ vàng vợ chồng ông Quang còn nợ là đủ 45 chỉ vàng và ông Quang đã ký giấy nhận vàng ngày 04-4-l995. Vợ chồng ông Quang, bà Hiền đã làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông, bà hợp đồng chuyển nhượng được Ủy ban nhân dân phường Hoa Lư và Phòng kinh tế thị xã Pleiku chứng thực. Vợ chồng ông Quang đã giao giấy tờ sang nhượng và giao đấu cho gia đình ông. Gia đình ông đóng thuế sử dụng đất cho ông Quang vì lúc đó ông Quang là tổ trưởng nên trực tiếp đi thu thuế.

    Năm 1997 ông, bà thỏa thuận chuyển nhượng đất cho bà Rơ Chơm Phớt nhưng bà Phớt để chị Đinh Thị Hương (con gái bà Phớt) đứng tên trong hợp đồng với giá thỏa thuận là 72 chỉ vàng. Giữa ông, bà với vợ chồng ông Quang và mẹ con bà Phớt thỏa thuận là để ông Quang, bà Hiền đứng tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị Hương. Tại Ủy ban nhân dân phường Hoa Lư ông đã giao hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông, bà và vợ chồng ông Quang trên cơ sở đó Ủy ban nhân dân phường mới xác nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi bên chuyển nhượng là vợ chồng ông Quang với bên nhận chuyển nhượng là chị Hương. Trước khi giao giấy tờ cho ông Quang, ông có phô tô giấy nhận vàng và đơn xin chuyển nhượng đất.

    Năm 2002, vợ chồng ông Quang xây dựng nhà trên phần đất này nên bà Phớt khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã buộc gia đình ông phải trả 72 chỉ vàng và bồi thường thiệt hại 37.296.000đồng cho bà Phớt và chị Hương. Nay ông, bà yêu cầu ông Quang, bà Hiền phải trả lại phần đất đã chuyển nhượng hoặc thanh toán giá trị đất theo giá thị trường cho ông.

    Bà Võ Thị Hiền và ông Nguyễn Hồng Quang trình bày: Ông, bà có ý định chuyển nhượng 120m2 đất Cho vợ chồng ông Tương với giá 4 lượng vàng 98%. Ngày 01-4-1995 ông Quang viết giấy chuyển nhượng đất ghi giá 6.000.000đồng theo yêu cầu của vợ chồng ông Tương. Ông, bà chưa giao đất và cũng chưa nhận tiền. Sau khi viết giấy chuyển nhượng khoảng 4-5 ngày, ông Tương đến nhà ông, bà đề nghị ông Quang ký tên ở mục thay mặt tổ dân phố tại tờ đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất để ông Tương đi làm thủ tục chuyên nhượng quyền sử dụng đất từ ông, bà sang vợ chồng ông Tương. Do tin tưởng ông Tương sẽ trả tiền nên ông Quang thu thuế sử dụng đất của ông Tương. Năm 1999 ông Tương bảo ông Quang gặp chị Hương để thu thuế, nên ông, bà mới biết ông Tương đã bán lô đất đó cho chị Hương, sau đó ông, bà đã khiếu nại đến Ủy ban nhân dân phường Hoa Lư. Ông, bà không đồng ý yêu cầu của ông Tương vì ông, bà không nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Tương. Năm 2002 ông, bà được Ủy ban nhân dân thành phố Pleiku cấp giấy phép xây dựng nhà trên diện tích đất này.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 34/DSST ngày 03-8-2004, Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai quyết định:

    1. Tuyên bố “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Hồng Quang, bà Võ Thị Hiền, bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Tương, bà Nguyễn Thị Loan về lô đất số 04 đường Tô Vĩnh Diện, tổ 3, phường Hoa Lư, thành phố Pleiku; có kích thước chiều ngang theo đường Tô Vĩnh Diện 7m, chiều ngang phía sau giáp thung lũng 5m, chiều dài 25m, diện tích 130m2. Có tứ cận như sau: Đông giáp nhà ông Quang, Tây giáp nhà ông Phúc, Nam giáp đường Tô Vĩnh Diện, Bắc giáp thung lũng. Được Ủy ban nhân dân phường Hoa Lư ký ngày 04-4-1995 là vô hiệu.

    2. Ông Nguyễn Hồng Quang, bà Võ Thị Hiền tiếp tục được quyền sử dụng lô đất số 4 đường Tô Vĩnh Diện, tổ 3 phương Hoa Lư, thành phố Pleiku. Hiện ông Quang, bà Hiền đang sử dụng quản lý.

    3. Ông Nguyễn Hồng Quang, bà Võ Thị Hiền phải hoàn trả tại cho ông Nguyễn Tương, bà Nguyễn Thị Loan 45 chỉ vàng 98%.

    4. Ông Nguyễn Hồng Quang, bà Võ Thị Hiền phải bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Tương, bà Nguyễn Thị Loan 386.025.000đồng.

    Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tiền chi phí định giá tài sản, chi phí giám định, án phí, lãi suất chậm trả, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

    Ngày 10-8-2004 ông Nguyễn Hồng Quang có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ vụ án với ly do vợ chồng ông chưa nhận tiền chuyển nhượng đất của vợ chồng ông Tương, bà Loan, đề nghị giám định Giấy nhận vàng ngày 04-4-1995.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số23/DS-PT ngày 06-4-2005, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:

    Sửa án sơ thẩm.

    Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tương và bà Nguyễn Thị Loan.

    1.Tuyên bố hợp đồng được thể hiện tại "Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông Nguyễn Hồng Quang, bà Võ Thị Hiền với bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Tương, bà Nguyễn Thị Loan ký ngày 01-4-1995 là vô hiệu toàn bộ.

    2.Ông Quang, ba Hiền phải hoàn trả cho ông Tương, bà Loan 45 chỉ vàng.

    3.Ông Nguyễn Hồng Quang và bà Võ Thị Hiền được quyền sử dụng lô đất số 04 Tô Vĩnh Diện, phường Hoa Lưu thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai, có tứ cận:

    Đông giáp nhà đất ông Đinh Văn Thuận; Tây giáp nhà ông Huỳnh Ngọc Nông; Nam giáp đường Tô Vĩnh Diện; Bắc giáp thung lũng.

    Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về tiền chi phí giám định, chi phí định giá tài sản, lãi suất chậm trả, án phí theo quy định của pháp luật.

    Sau khi xét xử phúc thẩm ông Nguyễn Hồng Quang, bà Võ Thị Hiền có đơn khiếu nại không đồng ý với bản án phúc thẩm.

    Tại Quyết định số133/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 16-10-2006, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số23/DS-PT ngày 06-4-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai theo thủ tục giảm đốc thẩm; Để nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân sự sơ thẩm số 34/DSST ngày 03-8-2004, Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại.

    Tại Quyết định giám đốc thẩm số75/2007/DS-CTĐT ngày 22-3-2007, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Không chấp nhận kháng nghị số133/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 16-10-2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Giữ nguyên bản án dân sự phúc thẩm số23/DS-PT ngày 06-4-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

    Sau khi có Quyết định giám đốc thẩm nêu trên, ông Nguyễn Hổng Quang và bà Võ Thị Hiền có nhiều đơn khiếu nại.

    Tại Quyết định kháng nghị số166/2010/KN-DS ngày 19-3-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số75/2007/DS-GĐT ngày 22-3-2007 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 23/DSPT ngày 06-4-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, bản án dân sự sơ thẩm số 34/DSST ngày 03-8-2004 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Ông Nguyễn Hồng Quang và bà Võ Thị Hiền thừa nhận ngày 01-4-l995 có thỏa thuận chuyển nhượng 120m2 đất tại lô số 04, đường Tô Vĩnh Diện, tổ 3, phường Hoa Lư, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai với giá 40 chỉ vàng cho ông Nguyễn Tương và bà Nguyễn Thị Loan nhưng do ông Nguyễn Tương và bà Nguyễn Thị Loan không trả vàng nên ông, bà đã không đồng ý bán nữa và đã hủy bỏ việc chuyển nhượng; chữ ký tại “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, đề ngày 01-4-1995 và "Đơn xin chuyển lượng quyền sử dụng đất" đề ngày l0-9-l996 không phải là chữ ký của ông, bà; ngược lại ông Nguyễn Tương và bà Nguyên Thị Loan xuất trình bản photocoppy “Giấy nhận vàng" đề ngày 04-4-l995 và cho rằng ông Quang đã ký nhận đủ số tiền mua đất là 45 chỉ vàng của ông Tương, bà Loan.

    Trong hồ sơ vụ án có 03 tài liệu thể hiện có việc chuyển nhượng đất giữa ông Nguyễn Hồng Quang và ông Nguyễn Tương, đó là 02 “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất” cùng đề ngày 01-4-1995, cùng có nội dung ông Nguyễn Hồng Quang và và Võ Thị Hiền chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tương và bà Nguyễn Thị Loan thửa đất có diện tích 130m2 (diện tích đất sử dụng 150m2) với giá 6.000.000đồng và "Giấy sang nhượng hoa màu trên mảnh vướng” có nội dung ông Quang chuyển nhượng cho ông Tương một mảnh đất diện tích 120m2 (rộng 6m x dài 20m) và hoa màu, còn cái giếng thì dùng chung khi nào ông Quang đi nơi khác thì ông Tương mới trọn quyền sử dụng với giá 6.000.000đồng không ghi ngày tháng năm và ở các mục bên mua và bên bán không có chữ ký của các bên.

    Về hình thức của 02 "Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất” cùng đề ngày 01-4-1995 có nhiều điểm khác nhau, cụ thể một đơn có sửa chữa về diện tích đất, một đơn ở mục “TM/Tổ dân phố (thôn)” không có chữ ký. Bà Hiền (vợ ông Quang) khai là không biết chữ, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải không thành thể hiện bà tiền không biết chữ và chỉ điểm chỉ bằng dấu vân tay, nhưng tại hai đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên lại thể hiện có chữ ký của bà Hiền ở mục bên nhận chuyển nhượng tuy nhiên theo kết luận giám định của Viện khoa học hình sự Bộ công an thì không phải là chữ kỹ của bà Hiền. Về việc bà Hiền có biết chữ hay không cũng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác minh, làm rõ. Giá chuyển nhượng ghi trong đơn xin chuyển nhượng quyền sử dựng đất không đúng với giá hai bên thỏa thuận, theo lời khai của ông Quang, bà Hiền thì giá thoả thuận chuyển nhượng là 40 chỉ vàng, còn ông Tương và bà Loan thì cho rằng giá chuyển nhượng là 45 chỉ vàng. “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất" đề ngày 01-4-1995 có xác nhận của ông Ngô Văn Bằng (Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Hoa Lư", nhưng ông Bằng lại không chứng kiến việc chuyển nhượng này; ông Bằng khai ông ký vào đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo mẫu in sẵn trên cơ sở có xác nhận của ông Trà (cán bộ địa chính phường). Tại Bản kết luận giám định số 51/2004/GĐ ngày 28-6-004 của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự tỉnh Gia Lai kết luận: chữ ký ghi họ tên: “Ng hồng quang” trên hai tài liệu cần giám định Al vả A2 (Al là Giấy nhận vàng đề ngày 04-4-1995 và A2 là "Đơn xin chuyển lượng quyền sử dụng đất" giữa bên chuyển quyền sử dụng đất là ông Quang, bà Hiền với bên nhận quyền sử dụng đất là chị Đinh Thị Hương, có xác nhận của Tổ dân phố ngày l0-9-1996) với các chữ ký của ông Quang trong tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M11) là do cùng một người ký và viết ra và Tổ chức giám đình kỹ thuật hình sự tỉnh Gia Lai đề nghị Toà án nhân dân thành phố Pleiku thu thêm mẫu chữ ký, chữ viết của ông Nguyễn Hồng Quang thời điểm năm 1994, l995, 1996 gửi về Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự tỉnh Gia Lai để tiếp tục giám định các chữ ký trên tài liệu ký hiệu A3 ( là “Đơn xin chứng nhượng quyền sử dụng đất" đề ngày l-4-1995). Tuy nhiên, Tòa án các cấp lại không tiếp tục xác minh, thu thập chứng cứ để yêu cầu cơ quan giám định tiến hành giám định tiếp là có sai sót. Như vậy, các đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên có nhiều điểm mâu thuẫn và chưa được Cơ quan gián định kết luận chính xác về chữ ký là của các bên tham gia ký kết hợp .đồng, do đó không đủ cơ sở để cho rằng ông Tương, bà Loan đã trả đủ số tiền 6.000.000 triệu đồng cho ông Quang, bà Hiền như trong nội dung “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dựng đấ” đề ngày 01-4-1995.

    Về “Giấy sang nhượng hoa màu trên mảnh vườn” không ghi ngày tháng năm và ở các mục bên mua và bên bán không có chữ ký của các bên. ông Quang thừa nhận chính ông là người viết giấy này, tuy nhiên về tài liệu này lại chưa được Toà án các cấp xem xét, đánh giá trong quá trình giải quyết vụ án.

    Xét các tài liệu, chứng cứ về việc giao nhận vàng thì thấy rằng: Ông Tương, bà Loan không xuất trình được bản chính của giấy nhận vàng. Tại bản kết luận giám định của Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự tỉm Gia Lai đã tiến hành giám định trên bản photocoppy của “Giấy nhận vàng" đề ngày 04-4-1995 chỉ kết luận: “Không phát hiện dấu vết lắp ghép của 02 (hai) bản tài liệu”, còn các vấn đề khác chưa được kết luận. Mặt khác việc cơ quan giám định tiến hành giám định trên tài liệu photocoppy cũng là không đảm bảo tính chính xác.

    Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm và Hội đồng giám dốc thẩm của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao chưa đánh giá đầy đủ, khách quan các tài liệu còn nhiều mâu thuẫn nêu trên và các kết luận giám định chưa đủ căn cứ khẳng định là chữ  ký của ông Quang để cho rằng ông Quang đã ký vào “Đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất" đề ngày 01-4-1995 và “Giấy nhận vàng" đề ngày 04-4-l995 và xác định ông Quang đã nhận đủ 45 chỉ vàng chuyển nhượng đất của ông Tương, bà Loan là không có căn cứ. Vì vậy cần phải giải quyết lại vụ án để làm rõ các vấn đề nêu trên.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291 , khoản 3 Điều 297, Điều 299

    Bộ luật tố tụng dân sự;

    QUYẾT ĐỊNH:

    Huỷ Quyết định giám đốc thẩm số75/2007/DS-GĐT ngày 22-3-2007 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao và huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 23/DSPT ngày 06-4-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, bản án dân sự sơ thẩm số 34/DSST ngày 03-8-2004 của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

     
    4751 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận