Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về việc đòi tài sản và quyền sử dụng đất

Chủ đề   RSS   
  • #265529 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về việc đòi tài sản và quyền sử dụng đất

    Số hiệu

    10/2011/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về việc đòi tài sản và quyền sử dụng đất

    Ngày ban hành

    22/03/2011

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự


    .....

    Ngày 22-03-2011, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự đòi quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất giữa:

    Nguyên đơn:

    Anh Hoàng Hữu Hương sinh năm 1965; trú tại nhà số 8C thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

    Bị đơn:

    Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang do ông Nguyễn Văn Minh, Chánh Thanh tra Nhà nước huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang làm đại diện theo giấy ủy quyền số601/CV-UB ngày 24 -7 - 2002 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang.

    - Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang do ông Nghiêm Xuân Lâm giám đốc đại diện.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Chị Nguyễn Thị Mậu

    2. Chị Phạm Thị Hạnh

    3 . Chị Chu Thị Nụ

    4 . Anh Nguyễn Thanh Cao

    5 . Anh Phạm Văn Hưởng

    6. Anh Trịnh Văn Phước

    7 . Anh Nguyễn Hồng Giang

    8 . Anh Trần Đức Hùng.

    Chị Mậu, chị Hạnh, chỉ Nụ, anh Cao, anh Hưởng, anh Phước, anh Giang và anh Hùng đều trú tại thị trấn Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 06-01-1994 và các lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn là anh Hoàng Hữu Hương trình bày:

    Ngày 15-7-1968, gia đình anh nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Văn Thành một dinh cơ tại phố Vôi gồm một nhà ngói đã dỡ, một bếp, sân, giếng và cây cối trong vườn đứng tên anh trai anh là Hoàng Hữu Tăng.

    Ngày 24 - 4 - 1973, anh Tăng và Cửa hàng ăn uống Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc (cũ) thỏa thuận ký "Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất”, do ông Lạc Như Vĩnh đại diện với nội dung: gia đình anh Tăng bán 4 gian nhà lợp ngói và sân gạch trên diện tích 78m2 đất cho Cửa hàng ăn uống Vôi, phần đất cỏn lại trên đất có một giếng gạch và công trình phụ bên cạnh là ao cá nhỏ, diện tích khu đất bỏ không khoảng 120m2 không tính diện tích ao, vườn, cho cửa hàng mượn.

    Ngày 15-9-1991, gia đình anh đòi quyền sử dụng khu đất cho Cửa hàng ăn uống Vôi mượn. Ngày 27-1-1992, Liên hiệp Công ty Thương nghiệp Hà Bắc (là cơ quan quản lý cấp trên của Cửa hàng ăn uống Vôi) có văn bản trả lại khu đất của Cửa hàng bán kem, phở cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang để giải quyết tranh chấp, phần còn lại một số hộ hiện đang sử dụng. Anh yêu cầu Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang trả cho gia đình anh ba gian nhà và 485m2 đất (phiên tòa sơ thẩm ngày 9-4-1996).

    Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 30-11-2000, anh yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang trả lại đất mà Cửa hàng ăn uống Vôi mượn (không xác định diện tích cụ thể), còn giá trị nhà 4 gian Cửa hàng ăn uống đã trả bằng nguyên vật liệu. Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 18-5-2006, anh yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang trả cho gia đình anh 500m2 đất (có 8 hộ đang ở); tài sản trên đất không còn giá trị nên anh không yêu cầu.

    Bị đơn là Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang do người đại diện theo ủy quyền trình bày: Phần nhà trên diện tích 78m2 đất gia đình anh Hương đã chuyển nhượng cho Cửa hàng ăn uống Vôi; phần còn lại gia đình anh Hương đã được trả lại theo bản án số 07/DSST ngày 12-6-1991 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ); giấy thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất được lập khi ông Lạc Như Vĩnh (người ký văn bản đại diện cơ quan mượn đất) đã nghỉ hưu và ông Vĩnh không có thẩm quyền ký văn bản thỏa thuận Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang yêu cầu anh Hương xuất trình bản gốc văn bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất ngày 24-4-1973, nhưng anh không xuất trình được nên Ủy ban không chấp nhận yêu cầu của anh.

    Đồng bị đơn là Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang do ông Nghiêm Xuân Lâm đại diện trình bày: Liên hiệp Công ty Thương nghiệp Hà Bắc đã bàn giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang giải quyết việc tranh chấp đất giữa anh Hương với Ủy ban nhân dân huyện. Tài sản trên đó vẫn thuộc Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang quản lý. Khi nào Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang giải quyết dứt điểm thì Công ty sẽ giải quyết về tài sản với người được sử dụng đất trên.

    Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    Chị Mậu, chị Hạnh, chị Nụ cho rằng các chị được Ban Tài chính huyện Lạng Giang cho thuê ki ốt từ những năm 1993 nên họ không có quyền quyết định về đất và tài sản trên đất. Anh Phước, anh Giang là người được thanh lý nhà nên không đồng ý với yêu cầu của anh Hương.

    Anh Nguyễn Thanh Cao cho rằng năm 1978, anh được Công ty Thương nghiệp thanh lý 2 gian nhà cấp 4. Anh đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1993 với diện tích 56m2 tờ bản đồ số 19, thửa số 580, nên không chấp nhận yêu cầu của anh Hương.

    Anh Trần Đình Hùng cho rằng vợ chồng anh làm cổng đi trên đất bờ ao có chiều ngang khoảng l,5m, chiều dài 19,7m được chính quyền địa phương cho phép, nên không đồng ý với yêu cầu của anh Hương.

    Anh Phạm Văn Hưởng khẳng định năm 1986 anh mua nhà của bà Dương Thị Bài là cán bộ Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang. Bà Bài đã được Ủy ban nhân dân xã cấp đất năm 1979 là 150m2 nên không đồng ý trả đất cho anh Hương.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 9-4-1996, Toà án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) quyết định: 

    Bác đơn kiện đòi tài sản của anh Hoàng Hữu Hương

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Sau khi xét xử sơ thẩm tại Quyết định kháng nghị số 503/DS ngày 19-4-1996, Viện trường Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Bắc kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 9-4-1996 theo thủ tục phúc thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm theo hướng chấp nhận hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên.

    Ngày 11-4-1996, anh Hoàng Hữu Hương kháng cáo không nhất trí bản án sơ thẩm.

    Ngày 19-4-1996, đại diện Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc thẩm buộc anh Hương phải chịu án phí vì yêu cầu anh Hương không được chấp nhận; làm rõ gia đình anh Hương kiện đòi những gì, vị trí đến đâu, giá trị bao nhiêu, ai đang quản lý sử dụng tài sản đó; Quyết định số11/QĐ-UB ngày 4-2-1994, Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang đã bác đơn khiếu nại đòi đất của anh Hương vì không đủ cơ sở giải quyết.

    Tại Bản dân sự phúc thẩm số 16 ngày 13-12-1996, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:

    Huỷ bản án sơ thẩm sổ 04/DSST ngày 9-4-1996 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc; giao hồ sơ về cho cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 30-11-2000, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định:

    Bác đơn khởi kiện của anh Hương

    Ngày l-12-2000, anh Hương kháng cáo bản án sơ thẩm.

    Tại Quyết định số 1993/QĐKN ngày 11-12-2000, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên, đề nghị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm trả lại đất cho anh Hương.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 92/DSPT ngày 06-7-2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội nhận định:

    Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 30-11-2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm lại

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 18-5-2006, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định:

    Xác nhận 148,5m2 đất Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang nhận bàn giao của Liên hiệp Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) thuộc quyền sử dụng của anh Hoàng Hữu Hương.

    Giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang quyền sử dụng 148,5m2 đất trên đây. Nhưng Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang phải thanh toán cho anh Hương 222.750. 000 đồng giá trị lô đất đó.

    Anh Hương có quyền sở hữu 222.750.000 đồng do Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thanh toán.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, nghĩa vụ do chậm thi hành án và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

    Ngày 26-5-2006 và ngày 29-5-2006, anh Hoàng Hữu Hương kháng cáo bản án sơ thẩm với các nội dung sau:

    Phần nhà trên diện tích 78m2 theo Biên bản thỏa thuận ngày 24 - 4 - 1973 gia đình anh nhượng bán cho Cửa hàng để Cửa hàng cho gia đình anh được mua nguyên vật liệu giá Nhà nước, nhưng gia đình anh chưa được mua nguyên vật liệu nên đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm buộc Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thanh toán cho anh diện tích 78m2 đất của nhà 4 gian và sân gạch đã bán.

    Do Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang đã cấp sổ đỏ trái pháp luật cho anh Nguyễn Thanh Cao 81m2, anh Phạm Văn Hưởng 118,6m2 nên Ủy ban nhân dân phải thanh toán trả anh bằng tiền đối với diện tích đất trên.

    Đề nghị Tòa án buộc Ủy ban nhân dân huyện phải trả cho gia đình anh diện tích đất do các hộ đang sử dụng gồm :

    - Anh Nguyễn Hồng Giang : 65,1m2

    - Anh Trịnh Văn Phước : 63 ,3m2

    - Anh Trần Đức Hùng : 30m2

    - Anh Nguyễn Thanh Cao : 81m2

    - Anh Phạm Văn Hưởng : 118,6m2

    - Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang: 188,9m2

    - Tổng cộng là : 546,9m2

    Nếu thanh toán bằng tiền thì anh yêu cầu áp giá 3.000.000 đồng/1m2.

    Ngày 24-5-2006, đại diện Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang kháng cáo cho rằng:

    Theo kết luận giám định và lời khai thì anh Tăng thừa nhận chữ viết và chữ ký trong Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất không phải của anh; ông Vĩnh không có thẩm quyền ký Biên bản thỏa thuận; Biên bản thỏa thuận có dấu hiệu bị làm giả; anh Tăng không xuất trình được bản gốc Biên bản thỏa thuận nên không có việc Cửa hàng mượn đất.

    Giấy chuyển nhượng đất giữa ông Thành và anh Tăng không nêu diện tích, không có vị trí, ranh giới; Bản án dân sự số 07/DSST ngày 12-6-1991 đã giải quyết về diện tích đất mà anh Tăng mua của ông Thành; không có căn cứ xác định 148,5m2 đất Liên hiệp Công ty Thương nghiệp Hà Bắc bàn giao cho Ủy ban nhân dân huyện là đất mượn của anh Tăng.

    Việc anh Hương kiện đòi đất nhưng không nêu diện tích cụ thể, lời khai trước sau không thống nhất; Biên bản thỏa thuận có hai nội dung là phần nhượng bán và phần cho mượn nhưng Tòa án không làm rõ hai phần này gồm những gì, diện tích, giá trị bao nhiêu; phần anh Hương được trả năm 1991 có nằm trong diện tích kiện đòi không; tình trạng tài sản trên đất hiện nay gồm những gì, ai đang sử dụng nhưng vẫn giải quyết là không đủ căn cứ.

    Tòa án không buộc anh Hương phải chịu án phí đối với phần yêu cầu bị bác là không đúng.

    Ủy ban nhân dân huyện không phải là bị đơn nhưng Tòa án lại xác định Ủy ban nhân dân huyện là bị đơn trong vụ án là không đúng.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 50/2007/DSPT ngày 03 - 4 - 2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định sữa một phần án sơ thẩm như sau:

    Xác định 148,5m2 đất trên thừa đất số 1427, bản đồ năm 1978 của xã Yên Sơn cũ huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang do Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc bàn giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thuộc quyền sử dụng của anh Hoàng Hữu Hương.

    Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang tiếp tục quản lý đất này nhưng phải trả anh Hương 297. 000. 000 đồng.

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí nghĩa vụ do chậm thi hành án.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang khiếu nại cho rằng: Tại Kết luận giám định số 1487/C21(P6) ngày 27-6-2007, Viện Khoa học hình sự khẳng định dấu đóng ở Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất là dấu giả; chữ ký và chữ viết trong biên bản không phải của anh Tăng; ông Cơ (người chứng thực vào Biên bản thỏa thuận) lúc đó không phải là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Yên Mỹ; ông Vĩnh không có thẩm quyền ký Biên bản thỏa thuận nên đây là văn bản giả. Anh Hương sử dụng văn bản giả nhưng lại khai mất bản gốc.

    Đất mà nguyên đơn kiện đòi không rõ ràng về ranh giới, diện tích nhưng Tòa án lại căn cứ vào tài liệu giả nêu trên và lời khai của anh Hương để công nhận anh Hương có quyền sử dụng đất, từ đó buộc Ủy ban nhân dân huyện trả giá trị quyền sử dụng đất cho anh Hương là không đúng vì bản án dân sự số 07/DSST ngày 12-6-1991 đã giải quyết xong diện tích đất mà anh Tăng mua của ông Thành

    Tại quyết định số203/2010/KN-DS ngày 31-3-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2006/DSST ngày 18-5-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án choTòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết lại sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

    XÉT THẤY:

    Anh Hương cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp là một phần trong diện tích đất mà gia đình anh mua của ông Nguyễn Văn Thành năm 1968. Ngày 24-4-1973, anh Hoàng Hữu Tăng (là anh trai của anh) ký “Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất" với đại diện Cửa hàng ăn uống Vôi, huyện Lạng Giang, tỉnh Hà Bắc (cũ) có nội dung: gia đình anh bán 4 gian nhà lợp ngói và sân gạch trên diện tích 78m2 đất; phần đất còn lại trên đó có công trình phụ, giếng ao, vườn cho Cửa hàng ăn uống Vôi mượn, khi nào gia đình sử dụng thì Cửa hàng trả. Sau khi mua và mượn đất, Cửa hàng ăn uống Vôi sử dụng để kinh doanh và cho một số hộ ở trên đất. Ngày 15-9-1991, anh yêu cầu Cửa hàng ăn uống Vôi trả lại diện tích đất đã mượn.

    Tuy nhiên, thục hiện Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Bắc vê việc sắp xếp lại các đơn vị kinh tế quốc doanh thì Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) là cơ quan quản lý trực tiếp và nhận bàn giao tài sản của Công ty Thương nghiệp Tổng hợp huyện Lạng Giang (trong đó có tài sản của Cửa hàng ăn uống Vôi) nên trước khi khởi kiện tại Tòa án thì anh Hương đã có đơn gửi Liên hiệp Thương nghiệp và Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) yêu cầu trả lại nhà đất mà Cửa hàng ăn uống Vôi đã mựợn cho gia đình anh. Tại Công văn số271/LH-TN ngày 27-01-1992, Liên hiệp Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) đã đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh chấp thuận để Liên hiệp Công ty Thương nghiệp giao toàn bộ lô đất và tài sản của Cửa hàng bán kem phở ở phố Vôi cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang xem xét giải quyết trong đó xác định trên diện tích đất do Liên hiệp Thương nghiệp Hà Bắc quản lý (có tranh chấp) có hai hộ đang sử dụng một phần đất có tranh chấp. Tại Công văn số79/HC-UB ngày 18-02-1992, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ) yêu cầu Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tiến hành bàn giao toàn bộ lô đất và tài sản trên đất của Cửa hàng bán kem, phở cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang theo nội dung Công văn271/LH-TN ngày 27-1-1992 gửi Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ); Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang có trách nhiệm xem xét và giải quyết đơn đề nghị của anh Hương theo thẩm quyền. Tại Biên bản làm việc ngày 26-7-1992, Liên hiệp Thương nghiệp Hà Bắc bàn giao khu đất có diện tích 148,5m2 cạnh khu nhà bán kem Vôi cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang để giải quyết khiếu nại của anh Tăng. Thực hiện yêu cầu tại Công văn số79/HC-UB ngày 18-2-1992 nêu trên của Ủy ban nhân dân tỉnh, tại Quyết định số11/QĐ-UB ngày 4-2-1994, Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang đã giải quyết khiếu nại và bác đơn khiếu nại của anh Hương về việc đòi lại đất tại phố Vôi, xã Yên Mỹ vì anh Hương không xuất trình được những chứng từ gốc có giá trị pháp lý để làm cơ sở giải quyết; giao cho Phòng Nông nghiệp - TTCN, phòng Giao thông - XD quản lý và sử dụng đúng mục đích.

    Như vậy, việc đòi nhà, đất tại phố Vôi của gia đình anh Hương đã được giải quyết bằng Quyết định số11/QĐ-UB ngày 4-2-1994 của Ủy ban nhân dân huyện, cho đến nay Quyết định nêu trên vẫn có hiệu lực và không bị hủy bỏ. Lẽ ra, trước khi giải quyết yêu cầu của anh Hương thì Tòa án phải trao đổi với Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang về Quyết định nêu trên. Trường hợp Ủy ban nhân dân huyện xác định việc giải quyết của Ủy ban nhân dân huyện là đúng thẩm quyền và Quyết định số11/QĐ-UB nêu trên là đúng pháp luật thì phải hướng dẫn cho anh Hương khiếu nại yêu cầu Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết. Trường hợp Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang xác định việc giải quyết của Ủy ban nhân dân là không đúng thẩm quyền và Ủy ban nhân dân huyện rút hoặc hủy bỏ quyết định hành chính nêu trên thì phải hướng dẫn anh Hương khởi kiện yêu cầu những người đang quản lý sử dụng nhà, đất trả nếu anh Hương có chứng cứ chứng minh.

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang xem xét về Quyết định nêu trên, trong khi đó một số hộ đang quản lý sử dụng diện tích đất có tranh chấp những lại xác định Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang là bị đơn trong vụ án dân sự là không đúng.

    Mặt khác, theo lời khai của các đương sự thì thực tế chị Mậu, chị Hạnh, chị Nụ, anh Cao, anh Hương, anh Phước, anh Giang và anh Hùng đang quản lý sử dụng một phần đất mà anh Hương yêu câu trả. Đồng thời, theo lời khai của đại diện Công ty Thương nghiệp huyện Lạng Giang thì trên diện tích đất nói trên có một số tài sản của công ty. Khi giải quyết vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đưa các anh chị có tên trên tham gia tố tụng nhưng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng và không đưa đại diện Liên hiệp Thương nghiệp tỉnh tham gia tố tụng cũng không đúng.

    Còn Tòa án cấp phúc thẩm không đưa các đương sự trên tham gia tố tụng là vi phạm thủ tục tố tụng.

    Ngoài ra, anh Hương đòi quyền sử dụng đất và tài sản trên đất vì cho rằng Cửa hàng ăn uống Vôi mượn của gia đình anh. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án anh Hương có lời khai mâu thuẫn về diện tích và không xác định rõ ràng ranh giới, diện tích đất anh khởi kiện đòi. Còn tại "Biên bản thỏa thuận mua bán nhà và dùng nhờ đất" mà anh Hương xuất trình cũng không xác định ranh giới, vị trí đất mà đại diện của Cửa hàng ăn uống Vôi mượn của gia đình anh. Hơn nữa từ năm 1990 anh Hương đã khởi kiện đòi nhà đất và tại bản án dân sự sơ thẩm số07/DS-ST ngày 12-6-1991, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc đã giải quyết yêu cầu của anh Hương. Lẽ ra, phải xác minh làm rõ yêu cầu cụ thể của anh Hưong xem xét quyết định tại bản án dân sự số07/DS-ST ngày 12-6-1991 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc (cũ). Trường hợp có căn cứ xác định ngoài phần nhà, đất mà Tòa án đã giải quyết cho anh Hương theo bản án nêu trên nhưng anh Hương vẫn có quyền sử dụng đối với phần đất khác thì chỉ giải quyết đối với phần tài sản mà Tòa án chưa giải quyết mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh các vấn đề nêu trên mà chỉ căn cứ vào sơ đồ hiện trạng khu đất bàn giao giữa Liên hiệp Công ty Thương nghiệp tỉnh Hà Bắc (cũ) với Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang và Biên bản làm việc giữa đại diện hai cơ quan trên để xác định anh Hương vẫn còn quyền sử dụng 148,5m2 đất. Từ đó giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang sử dụng và buộc Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang thanh toán giá trị cho anh Hương là không có căn cứ và không đúng pháp luật.

    Vì các lẽ trên,

    Căn cứ khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 50/2007/DSPT ngày 3-4-2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 03/DSST ngày 18-5-2006 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang về vụ án đòi nhà đất giữa nguyên đơn là anh Hoàng Hữu Hương với bị đơn là Ủy ban nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

     

     
    5911 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận