Số hiệu
|
13/2010/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự "Tranh chấp về hôn nhân và gia đình (chia tài sản chung vợ chồng)
|
Ngày ban hành
|
02/04/2010
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
…
Ngày 02 tháng 04 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình ( chia tài sản chung vợ chồng) giữa:
Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh, sinh năm 1974;
Bị đơn: Anh Vũ Văn Xuân, sinh năm 1964;
Cùng trú tại: Tổ 65, ấp Hoàng Giao, thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan:
1. Bà Đinh Thị Hoa, sinh 1947, cùng địa chỉ anh Xuân;
2. Chị Vũ Thị Tuyết Nụ, sinh năm 1973 và anh Trần Minh Hiếu, sinh 1972, trú tại ấp Hoàng Giao, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Ông Trần Diệp Thạch và bà Nguyễn Thị Thầm, trú tại khu phố 2, thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
4. Ông Lê Xuân Minh và bà Phan Thị Khiên, trú tại tổ 9 ấp Hoàng Giao, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NHẬN THẤY:
Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh và anh Vũ Văn Xuân trước đây là vợ chồng. Hai người có 03 con chung, con lớn sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 199. Năm 2003 chị Hạnh yêu cầu ly hôn. Tại bàn án phúc thẩm số 11/HNGĐPT ngày 2l/6/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã giải quyết xong quan hệ hôn nhân và con chung. Riêng về tài sản chung nợ chung, mặc dù Tòa án nhân dân huyện Châu Đức đã giải quyết sơ thẩm 2 lần (bản án sơ thẩm số 20/HNGĐST ngày 21/4/2004 và bản án sơ thẩm số 16/2006/HNGĐST ngày 16/6/2006), nhưng đều bị hai bàn án phúc thẩm số 11/HNGĐPT ngày 21/6/2004 và bản án phúc thẩm số 51/DSPT ngày 06/4/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xử hủy về phần chĩa tài sản để giải quyết sơ thẩm lại, với lý do: Bản án sơ thẩm chưa đề cập, xem xét, giải quyết đầy đủ các yêu cầu của các đương sự, vi phạm các Điều 5, 58, 60, 61 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thụ lý để giải quyết tại theo trình tự sơ thẩm vào ngày 23/5/2006, nội dung tranh chấp như sau:
Theo chị Hạnh, tài sản chung của vợ chồng hiện nay chỉ còn duy nhất diện tích đất 3.193m2 thuộc thửa 58+13 tờ bản đồ số 69+70 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao. Chị Hạnh yêu cầu giải quyết theo pháp luật. Ngoài ra; căn nhà cấp 4 trước đây chị và anh Xuân ở đã bị sập: một số vật dụng gia đình không đáng kể, không yêu cầu giải quyết.
Về diện tích 4.203m2 đất thuộc thửa 215 tờ bản đồ số 32 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao có nguồn gốc thuộc quyền sử dụng của mẹ chị là bà Đoàn Thị Vui. Bà Vui đã được cấp GCNQSDĐ số A6004054 ngày 09/9/1991. Do bà Vui sống độc thân và chỉ có một người con duy nhất là chị, nên sau khi chị lấy anh Xuân, bà đã cho chị và anh Xuân trực tiếp quản lý sử dụng từ năm 1992. Năm 1995 khi chị đang mang thai con thứ hai, anh Xuân tự ý làm thủ tục tách mang tên anh Xuân ngày 05/4/1996. Sau khi biết chị không phản đối vì vợ chồng đang chung sống với nhau. Từ năm l996 đến năm 2001, chị và anh Xuân đã cắt chuyển nhượng cho nhiều người, sau khi trừ đi 41.5m2 đất bị quy hoạch mở đường, hiện nay thửa đất còn lại 376m2.
Đối với điện tích 9632 m2 đất thuộc thửa 22+31 tờ bản đồ số 31 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao có nguồn gốc được mua của ông Trần Diệp Thạch từ nguồn tiền bán đất thửa 215 vào năm 1998, đất này hiện chưa sang tên trước bạ mà vẫn do ông Thạch đứng tên trong giấy CNQSDĐ số B: 433771 cấp ngày 11/11/2004. Do đó, hai thửa đất này là tài sán riêng của chị, không phải là tài sản chung của vợ chồng.
Về quan hệ vay và cho vay: đến thời điểm hiện nay chị và anh Xuân không có quan hệ chung gì về cho vay và vay.
Theo anh Xuân (đại diện là bà Đinh Thị Hoa- mẹ đẻ anh Xuân): thừa nhận nguồn gốc diện tích đất 4.203m2 thuộc thửa 215, tờ bản đồ số 32 trước đây là của bà Vui. Sau khi chị Hạnh và anh Xuân lấy nhau, bà đã cho vợ chồng nên bà Vui mới làm thủ tục chuyển nhượng cho anh Xuân. Theo giấy CNQSDĐ thì anh Xuân là người đứng tên thửa đất 215 tờ bản đồ số 32 và thửa 58 + 13 tờ bản đồ số 69 +70 riêng thửa 22 + 31 tờ bản đồ số 3l thì chưa làm thủ tục sang tên.
Ngày 16/11/2000 anh Xuân bị tai nạn giao thông, sau một thời gian ngắn do mâu thuẫn, chị Hạnh bỏ nhà đi. Bà phải trực tiếp nuôi 03 con của anh Xuân, phải lo chi phí chăm sóc anh Quân, không có tiền, nên bà có làm đơn xin xác nhận cho anh Xuân bán đất để lấy tiền chữa bệnh. Ngày 30/7/2001 anh Xuân đã viết “giấy sang nhượng đất vườn" khi nhận việc bán 9.632m2 đất thuộc thửa 22 +31 tờ bản đồ số 31 cho vợ chồng chị Nụ, em ruột với giá 10 cây vàng, tương đương 46.500.000đồng.
Nay anh Xuân, bà Hoa có quan điểm: mặc dù là tài sản chung của vợ chồng, anh Xuân tự ý bán không có sự đồng ý của chị Hạnh: nhưng lý do bán là hoàn toàn chính đáng. Mặt khác, bán cho người khác không ai dám mua, tính mạng con người là quan trọng nên chị Nụ mua để tạo điều kiện cho anh trai chữa bệnh: chị Hạnh phải có trách nhiệm với các chi phí của anh Xuân trong thời gian vợ chồng chưa ly hôn. Do đó: yêu cầu Tòa án công nhận quyên sử dụng hợp pháp mảnh đất mà chị Nụ đã mua. Đối với thửa đất còn lại, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Số tiền được bồi thường cua 41,5m2 đất là 10.375.000đồng, anh Xuân đã nhận: hiện thừa đất 215m2 chỉ còn có 376m2.
Anh Xuân cho rằng, mặc dù phải bán đất để chữa bệnh nhưng ngoài ra mẹ anh đã bỏ ra một số tiền đê lo cho anh, nhưng anh không nhớ cụ thê hà bao nhiêu.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ tiên quan trình bày:
1 .Vợ chồng ông Trần Diệp Thạch và bà Nguyễn Thì Thầm: Xác nhận năm l998 ông bà có sang nhượng toàn bộ diện tích thuộc thửa 22 + 3l tờ bản đồ số 31 (diện tích 9.632m2 đất) tại ấp Hoàng Giao cho anh Xuân, chị Hạnh với giá 5,9 cây vàng. Tại thời điểm đó, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên hai bên không thông qua chính quyên. Năm 2004 Nhà nước làm thủ tục và đất này dùng tên ông. Nay ông bà có quan điểm việc sang nhượng đất giữa ông bà và anh chị Xuân Hạnh đã song từ lâu, gia đình đã không có quyền lợi gì liên quan đến thửa đất này nữa đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
2. Chị Vũ Thị Tuyết Nụ (nhận ủy quyền của chồng chị là anh Trần Minh Hiếu): Năm 2000 anh Xuân bị tai nạn rất nặng, cần có số tiền lớn đê điều trị, chị Hạnh khi đó không có nhà nên không hỏi được ý kiến, mặc dù anh Hiếu không đồng ý mua, nhưng vì anh Xuân là anh ruột nên chị đã thuyết phục mua đất của anh Xuân với giá 10 cây vàng. Chị sử dụng trông cậy vông và nọc tiêu, hiện nay cây đã chết nhiều, chị yêu cầu được công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với thửa đất này.
3. Vợ chồng ông Lê Xuân Minh và bà Phan Thị Khiên: Do ông bà không có đất ở nên năm 2000 ông bà có xin anh Xuân chị Hạnh được ở nhờ căn chòi nhưng không canh tác trên thửa đất số 22 + 31 tờ bản đồ số 31 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao. Quá trình sống ông bà có gác thêm gian bếp tạm, Năm 2001, ông nghe nói anh Xuân đã bán thửa đất này cho chị Nụ lấy tiền chữa bệnh. Theo ông, chị Nụ vẫn cho anh Xuân thu hoạch hoa lợi trên đất, thỉnh thoảng ông thấy chị Nụ và chị Hạnh đến thăm, còn thực chất việc mua bán thế nào ông không biết. Hiện nay vợ chồng ông có quan điểm: ông chỉ ở nhờ, phần bếp chỉ làm tạm nên ông bà sẽ thu xếp trả lại đất.
4. Bà Đinh Thị Hoa: Khi anh Xuân bị tai nạn, chị Hạnh bỏ nhà đi, bà trực tiếp nuôi 03cháu và phải chăm sóc chưa bệnh cho anh Xuân. Trước đây bà có nợ 30.000.000đồng vay để chữa bệnh cho anh Xuân, nay 2 người tranh chấp tài sản chung bà yêu cầu vợ chồng phải trả cho bà 30 triệu đồng. Tuy nhiên tại Tòa sơ thẩm thì bà rút yêu cầu này.
Tại bản án sơ thẩm số 03/2007HNST ngày 20/1l/2007, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định:
1. Đình chỉ yêu cầu của bà Đinh Thị Hoa đòi anh Vũ Văn Xuân và chị Phạm Thị Mỹ Hạnh phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà 30 triệu đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của chỉ Phạm Thị Mỹ Hạnh đề nghị công nhận hai thửa đất 376m2 thuộc thửa 215 tờ bản đồ 32 và 9.632m2 đất thuộc thửa 22 +31 tờ ban đồ 31 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao, Thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức là tài sản riêng của chị Phạm Thị Mỹ Hạnh.
Xác định 03 thửa đất: 376m2 thuộc thửa 215 tờ bản đồ số 32; 9.632m2 thuộc thửa 22 +31 tờ ban đồ 31 và 3.193m2 thuộc thửa 58 + 13 tờ bản đồ số 69 + 70 đều tọa lạc tại ấp Hoàng Giao, Thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức và 10.375.000đồng tiền bồi thường cua 41,5 m2 dết thuộc thửa 215 tờ bản đồ số 32 là tài sản chung của anh Vũ Văn Xuân và chị Phạm Thị Mỹ Hạnh.
Chị Phạm Thị Mỹ Hạnh được huyền sử dụng 376m2 dết thuộc thửa 215 tờ bản đồ số 32 theo sơ đồ vị trí của TTKTTN & MT tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu lập ngày 27/8/2007.
Anh Vũ Văn Xuân được quyền sử dụng 3.193 m2 đất thuộc thửa 58 +13 tờ bản đồ số 69+ 70 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao, thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức theo sơ đồ vị trí của TTKTTN & MT tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu lập ngày 27/8/2007.
Anh Xuân phải có nghĩa vụ giao lại giá trị tài sản chênh lệch cho chị Hạnh là 9.947.000đồng.
Chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị Tuyết Nụ và anh Trần Minh Hiếu như sau: Công nhận cho vợ chồng chị Vũ Thị Tuyết Nụ và anh Trần Minh Hiếu được quyền sử dụng 9.632m2 thuộc thửa đất 22+3l tờ bản đồ số 31 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao.
Anh Xuân, chị Hạnh, vợ chồng chị Nụ và anh Hiếu có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để hợp thức hóa lại quyền sử dụng đất theo nội dung quyết định trên đúng theo quy định của pháp luật.
4. Vợ chồng anh Lê Xuân Minh và chị Phan Thị Khiên không có yêu cầu giải quyết quyền lợi về tài sản, nên không xem xét.
Bản án còn tuyên về chi phí đo đất, định giá án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/12/2007 chị Phạm Thị Mỹ Hạnh kháng cáo yêu cầu xét xử lại.
Tại bản án phúc thẩm số 57/2008/HNGĐPT ngày 29/2/2008, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Y án sơ thẩm.
Sau khi có bản án phúc thẩm, ngày 26/9/2008 chị phạm Thị Mỹ Hạnh có đơn yêu cầu được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với nội dung:
Diện tích đất 9.632m2 (đất anh Xuân đã bán cho chị Nụ) và diện tích 4.203m2 (đất của bà Vui đã sang tên cho anh Xuân) là tài sàn riêng của chị, đề nghị được xem xét lại việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Tại quyết định kháng nghị số760/2009/KN-DS ngày 30/12/2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án dân sự phúc thẩm số57/2008/HNGĐ-PT ngày 29/2/2008 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án phúc thẩm nêu trên và bản án sơ thẩm số 03/2007/HNST ngày 20/1l/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa đám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng khoản tiền đền bù 10.375.000 đồng là tài sản chung cua anh Xuân, chị Hạnh đã được Tòa án cấp sơ thầm và Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết, các nội dung khác đều nhất trí như kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân dân tối cao. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dám tối cao xét xử giám đốc thẩm huy bản án phúc thẩm số57/2008/HNGĐ-PT ngày 29/2/2008 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án sơ thẩm số 03/2007/HNST ngày 20/11/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Tại bản án phúc thẩm số 11/HNGĐPT ngày 21/6/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã giải quyết xong quan hệ hôn nhân và con chung giữa chị Phạm Thị Mỹ Hạnh với anh Vũ Văn Xuân và các đương sự cũng không có khiếunại.
Về chìa tài sản chung, chị Hạnh cho rằng diện tích 4.203m2 đất thuộc thửa 215 tờ bản đồ số 32 và diện tích đất 9.632m2 thuộc thửa 22+31 tờ bản đồ số 31 tọa lạc tại ấp Hoàng Giao, thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức là tài sản riêng của chị. Về vấn đề này thấy rằng: Theo tài liệu có trong hồ sơ thì diện tích đất 4.203m2 có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số A 604054 ngày 09/9/1991 mang tên bà Đoàn Thị Vui. Căn cứ mục “những thay đổi sau khi cấp GCN" cho thấy ngày 05/51/1996 bà Vui đã chuyển nhượng cho anh Xuân 4.203m2 đất này và ngày 29/10/1997 anh Xuân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B : 586591 đối với diện tích đất trên.
Việc chuyển nhượng từ bà Vui sang tên anh Xuân, cả chị Hạnh về bà Vui đều biết và không ai có ý kiến gì. Trên thực tế, thửa đất đã được anh Xuân, chị Hạnh cùng bán cho nhiều người. Hơn nữa, sau khi xay ra tranh chấp giữa hai vợ chồng, anh Xuân và chị Hạnh vân cam kết tiếp tục sang nhượng diện tích đất cho những người mua. Sau đó, Nhà nước đã thu hồi 41,5m2 trong phần đất còn lại đề mở đường và được đền bù 10.375.000 đồng, hiện diện tích còn lại là 376m2 . Như vậy có cơ sở xác định nguồn gốc đất nêu trên trước đây thuộc quyền sử dụng của bà Vui nhúng đã được bà Vui cho vợ chồng anh Xuân chị Hạnh. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều xác định thửa đất 215 có diện tích 4.203m2 nay còn lại 376m2 là tài sản chung của vợ chồng anh Xuân chí Hạnh là có căn cứ.
Đối với diện tích đất 9.632m2 thuộc thửa 22 + 3l, theo chị Hạnh và anh Xuân: đây là mảnh đất mua của ông Trần Diệp Thạch từ năm l998 bằng nguồn tiền do bán đất từ thửa 215 (4.203m2). Như vậy thửa đất 215 được xác định là tài sản chung của vợ chồng: nên thừa đất 22 + 31 có diện tích 9.632m2 cũng phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
Hơn nữa tại phiên tòa thúc thầm ngày 29/2/2008 lúc đầu chị Hạnh chỉ thừa nhận diện tích đất 3.193m2 là tài sản chung của vợ chồng, hai diện tích đất còn lại (4.203m2 Và 9.623m ) là từ sàn riêng của chị. Tuy nhiên ngay tại phiên tòa này: chị dã đồng ý xác nhận diện tích 4.203m2 dết (còn 376m2) Và diện tích 9.632m2 đất cùng, 10.375.000 đồng tiền giải tỏa đền bù (từ diện tích 4.203m2) là tài sản chung của vợ chồng.
Do đó, việc Tòa án cấp số thêm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định thửa đất số 215 có diện tích còn lại là 376m2 và thửa đất số 22+31 có diện tích 9.632m2 là tài sản chung của vợ chồng anh Xuân, chị Hạnh là có căn cứ.
Về khoản tiền 10.375.000đồng là tiền đền bù giải tỏa 41,5m2 đất tại thừa số 215 đã được cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm giải quyết. Tuy nhiên, tại phần quyết định tuyên chưa rõ ràng về khoản tiền này.
Về việc gíải quyết đối với thửa đất 22 +31 có diện tích đất 9.632m2, thấy rằng:
Trong thời kỳ hôn nhân đang tồn tại, anh Xuân làm giấy viết tay bán cho chị Nụ (em gái) diện tích đất 9.632m2 (bán trong thời gian anh Xuân bị tai nạn) mà không có sự đồng ý của chị Hạnh, không được chính quyền xã xác nhận và đã được giải thích là giao dịch trái pháp luật. Theo anh Xuân, anh phải bán đất để chữa bệnh và nuôi 03 con nhỏ trong thời gian hơn 03 năm chị Hạnh bỏ đi.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm công nhận giao dịch mua bán đất giữa anh Xuân với chị Nụ trong khi hợp đồng mua bán này đã vi phạm pháp luật cả về nội dung và hình thức, là công nhận một giao dịch trái pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Hạnh chỉ chấp nhận cho anh Xuân bán 1/2 bằng 4.816m2 đất là phần đất của anh Xuân còn phần của chị, chị yêu cầu được chia bằng đất (4.816m2) và chị đồng ý hoàn lại cho anh Xuân 05 lượng vàng 24K, bằng nửa số vàng mà anh Xuân đã bán cho chi Nụ, để giúp anh Xuân chữa bệnh, nuôi con, nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã bác yêu cầu này của chị Hạnh trong khi chị Hạnh có công sức đóng góp nhiều hơn vào khối tài sản chung (thửa 215 là đất của mẹ đẻ chị Hạnh cho và thửa sau mua bằng tiền bán đất từ thửa 215), là làm thiệt hại đến quyền lợi cua chị Hạnh.
Do đó, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận thấy Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề trên là có căn cứ chấp nhận.
Vì các lẽ trên:
Căn cứ Điều 219 khoản 3, Điều 297 khoản 3 Bộ luật tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
Hủy bản án dân sự phúc thẩm số57/2008/HNGĐ-PT ngày 29/2/2008 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí vành và bản án sơ thầm số 03/2007/HNST ngày 20/11/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đã giải quyết vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình (chìa tài sàn chung vợ chồng) giữa nguồn đơn là chị Phạm Thị Mỹ Hạnh và bị đơn là anh Vũ Văn Xuân giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy dịnh cúa pháp luật.