Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự giữa bà Dương Thị Minh Mão và bà Phan Thị Hồng Huệ về việc "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265517 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự giữa bà Dương Thị Minh Mão và bà Phan Thị Hồng Huệ về việc "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

    Số hiệu

    46/2010/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự giữa bà Dương Thị Minh Mão và bà Phan Thị Hồng Huệ về việc "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản"

    Ngày ban hành

    04/11/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    …..

    Ngày 04-11-2010, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về "tranh chấp về quyền sở hữu tài sản" giữa:

    Nguyên đơn: Bà Dương Thị Minh Mão sinh năm 1953; trú tại 102/5 khu phố 7, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Bà Mão ủy quyền cho ông Nguyễn Phước Minh trú tại 107 Hùng Vương, phường 6, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh (theo văn bản ủy quyền ngày 06/5/2004).

    Bị đơn: Bà Phan Thị Hồng Huệ sinh năm 1965; trú tại 629 E-13 AVE Vancouver Canada.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Ông Phan Hoa sinh năm 1952; trú tại 102/5 khu phố 7, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

    2. Ông Nguyễn Hữu Trí sinh năm 1960; trú tại số 3 An Dương Vương, phường 8, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

    3. Ông Đinh Tấn Lộc sinh năm 1969.

    4. Bà Nguyễn Thị Thu Hồng sinh năm 1964; trú tại 106/1B Trường Chinh, khu phố 6, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 4/7/2003 , ngày 18/3/2004 và quá trình tố tụng bà Dương Thị Minh Mão trình bày: Năm 1976 bà kết hôn với ông Phan Hoa và sống chung với gia đình chồng ở căn nhà trong hẻm. Cũng năm 1976 bà mượn tiền của em gái và của một số người khác mua căn nhà 106/1B ấp Bàu Nai, xã Đông Hưng Thuận, huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, nay mang số l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh (có diện tích 6,3m x 24m) của bà Trần Thị Nguyệt với giá 1.550.000 đồng, có làm giấy tay. Năm 1977 bà đăng ký kê khai nhà cửa theo chủ trương của Nhà nước. Năm 1978 bà nhập hộ khẩu tại căn nhà này. Năm 1980 mẹ chồng bà là cụ Lê Thị Tiếu chuyển hộ khẩu từ nhà số 102/5 Bàu Nai về nhà bà và sống chung cùng với gia đình bà. Năm 1991 vợ chồng bà thuê kiots ở đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 để kinh doanh, còn các con của bà vẫn ở tại căn nhà này. Năm 1993 cụ Tiếu nói với vợ chồng bà cho vợ chồng bà Phan Thị Hồng Huệ (đang ở số 3 An Dương Vương, phường 5, quận 5) về ở nhờ tại căn nhà này (Bà Huệ là em chồng bà). Sau đó cụ Tiếu tự ý nhập tên bà Huệ vào sổ hộ khẩu gia đình, nhưng vợ chồng bà không biết. Cũng năm 1993 cụ Tiếu xuất cảnh định cư tại Canada theo diện đoàn tụ gia đình. Năm 1997 vợ chồng bà phải trả lại kiots và về lại nhà l06/1B đường Trường Chinh thì bà Huệ không cho vào nhà, đồng thời đưa các giấy tờ liên quan chứng minh căn nhà trên thuộc sở hữu của bà Huệ. Lúc này vợ chồng bà mới biết bà Huệ nhập hộ khẩu và đã hợp thức hóa nhà của vợ chồng bà nên vợ chồng bà đã khiếu nại với ủy ban nhân dân quận 12, nhưng chưa được giải quyết. Năm 2004 thực hiện dự án mở rộng đường Trường Chinh, căn nhà trên bị giải tỏa 127,57m2 (6,3m x 20,25m), còn lại 23,62m2 (3,75m x 6,3m). Ban bồi thường giải phóng mặt bằng quận 12 đã căn cứ vào giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà số l06/1B đường Trường Chinh của bà Huệ để chi trả tiền đền bù cho bà Huệ 546.821.520 đồng nên phát sinh tranh chấp tiền đền bù giải tỏa. Ngày 08/4/2004 bà nộp đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp ngăn chặn không cho bà Huệ xuất cảnh, nhưng ngày 05/5/2004 bà Huệ đã xuất cảnh sang Canada. Bà xác định căn nhà trên là do bà mua của bà Trần Thị Nguyệt và yêu cầu bà Huệ trả cho bà tiền đền bù, phần đất còn lại san giải tỏa.

    Bà Phan Thị Hồng Huệ trình bày: Bà là con của cụ Tiếu và cụ Lộc. Năm 1976 cụ Tiếu làm giấy tay mua căn nhà số l06/1B đường Trường Chinh diện tích 86m2 của bà Trần Thị Nguyệt với giá khoảng 1.600.000 đồng (tương đương khoảng 2 lượng vàng) nhưng do căn nhà này được cất trên phần đất thuê của bà Phan Thị Mười nên năm 1986 mẹ bà mới thỏa thuận mua lại đất của bà Mười (DT 5m x 20m) với giá 2 chỉ vàng. Trong thời gian chưa mua đất hàng tháng mẹ bà phải trả 2000 đồng tiền thuê đất cho bà Mười. Sau khi mua nhà, mẹ bà để cho ông nội của bà là cố Phan Phổ (chết năm 1981) đứng tên chủ hộ trong hộ khẩu. Năm 1976 ông Phan Hoa (là anh trai của bà) kết hôn với bà Mão và cùng chung sống tại căn nhà số 102/5 Bàu Nai. Năm 1978 mẹ bà cho ông Hoa, bà Mão nhập hộ khẩu sang căn nhà số l06/1B đường Trường Chinh, nhưng thực tế vợ chồng ông Hoa không sống tại địa chỉ này mà thuê nhà ở nhiều nơi, trong đó nơi thuê sau cùng là ở đường Nguyễn Tri Phương, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1980 mẹ bà chuyển hộ khẩu từ căn nhà số 102/5 Bàu Nai sang đứng tên chủ hộ căn nhà số l06/1B đường Trường Chinh. Năm 1993 mẹ bà cho bà chuyển hộ khẩu từ căn nhà số 102/5 Bàu Nai sang căn nhà số l06/1B đường Trường Chinh. Lúc này mẹ bà đã làm xong giấy tờ hợp thức hóa nhà và đứng tên chủ quyền nhà từ năm 1989. Khi bà nhập hộ khẩu xong được gia đình thống nhất mẹ bà cho bà căn nhà trên. Ông Hoa là người viết giấy và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà cho bà. Ngày 07/6/1993 bà đã được công nhận quyền sở hữu đối với căn nhà trên. Bà xác định căn nhà số l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu của bà.

    Ông Phan Hoa (là chồng của bà Mão) trình bày: ông kết hôn với bà Mão năm 1976. Sau đó vài tháng vợ ông mua căn nhà số l06/1B đường Trường Chinh; giấy tờ mua bán do vợ ông đứng tên, nhưng đã bị thất lạc. Năm 1977 vợ ông có kê khai đăng ký nhà và đứng tên chủ hộ khẩu năm 1978. Năm 1980 mẹ ông mới về ở chung và nhập hộ khẩu về căn nhà trên đồng thời vợ chồng ông về ở nhà 102/5 Bàu Nai, phường Đông Hưng Thuận (cách căn nhà l06/1B đường Trường Chinh khoảng 200m) để lại nhà l06/1B đường Trường Chinh cho mẹ ông ở nhờ cùng với các con của ông. Năm 1989 mẹ ông hợp thức hóa căn nhà l06/1B đường Trường Chinh)nhưng vợ chồng ông không biết. Năm 1993 mẹ ông đi xuất cảnh không bàn giao nhà lại cho vợ chồng ông mà giao lại cho vợ chồng em gái ông là bà Huệ ở cho đến năm 2004 thì bà Huệ cùng 2 con đi xuất cảnh sang Canada, chỉ còn ông Nguyễn Hứa Trí chồng của bà Huệ cư ngụ tại căn nhà này. Năm 1997 vợ chồng ông mới biết mẹ ông đứng tên hợp thức hóa căn nhà trên và có khiếu nại nhưng chưa được giải quyết. Ông yêu cầu xác định căn nhà l06/1B đường Trường Chinh thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông.

    Bà Nguyễn Thị Thu Hồng (là người mua phần còn lại của căn nhà 106/1B sau khi giải tỏa) trình bày: Bà mua 25m2 đất còn lại của bà Huệ sau khi giải tỏa căn nhà l06/1B đường Trường Chinh với giá 500.000.000đ, do diện tích quá nhỏ nên bà chỉ làm giấy tay không có xác nhận của ủy ban nhân dân phường. Bà Huệ đã giao toàn bộ hồ sơ giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà cùng các giấy tờ liên quan cho bà. Năm 2004 do nhu cầu về nhà ở và kinh doanh nên bà đã xây dựng nhà 4 tầng trên diện tích đất này nhưng bà không làm thủ tục xin cấp phép xây dựng nên khi xây dựng đã bị lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính. Do bà chưa sang tên chủ quyền nên bà có nhờ ông Trí ký tên vào biên bản. Bà Mão không có giấy tờ nào liên quan đến căn nhà l06/1B đường Trường Chinh; giữa bà với bà Huệ không có tranh chấp nên bà không đồng ý yêu cầu của bà Mão.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số l059/2006/DS-ST ngày 27/9/2006, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Bác yêu cầu của bà Dương Thị Minh Mão cho rằng căn nhà 106/1B ấp Bàu Nai, xã Đông Hưng Thuận, huyện Hóc Môn (nay mang số 106/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuật quận 12) thuộc quyền sở hữu của bà.

    Bác yêu cầu của bà Dương Thị Minh Mão về yêu cầu hủy hợp đồng mua bán đất giữa bà Phan Thị Hồng Huệ, ông Nguyễn Hồ Trí với vợ chồng bà Nguyễn Thị Thu Hồng về 24m2 đất tọa lạc nhà số 106/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12.

    Bác yêu cầu của bà Dương Thị Minh Mão yêu cầu bà Phan Thị Hồng Huệ phải trả 24m2 đất tọa lạc nhà số 106/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12 và trả tiền đền bù giải tỏa 546.821.520 đ cho bà.

    Bản án còn quyết định về án phí.

    Ngày 9/10/2006 ông Nguyễn Phước Minh (là người đại diện theo ủy quyền của bà Mão) có đơn kháng cáo .

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 58/2007/DSPT ngày 01/3/2007, Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Không chấp nhận kháng cáo của bà Mão; giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm.

    Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí.

    Ngày 19/3/2007 bà Dương Thị Minh Mão có đơn khiếu nại.

    Tại Quyết định số l15/2010/KN-DS ngày 24-2-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 58/2007/DSPT ngày 01/3/2007 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số l059/2006/DS-ST ngày 27/9/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

    Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối can hủy bản án dân sự phúc thẩm số58/2007/DS- PT ngày 01/3/2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số l059/2006/DS-ST ngày 27/9/2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại.

    XÉT THẤY:

    Căn nhà số 106/1B ấp Bàn Nai, xã Đông Hưng Thuận, huyện Hóc Môn (nay mang số 106/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh) do bà Phan Thị Hồng Huệ là chủ sở hữu theo giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà số1291/GP-CS ngày 07/6/1993 của Sở nhà đất thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2003 thực hiện dự án cải tạo nâng cấp đường Xuyên Á hạng mục mở rộng đường Trường Chinh thì căn nhà trên nằm trong phạm vi giải tỏa (diện tích 117,7m2 đất và một số công trình nhà, vật kiến trúc, công trình phụ trên đất) được nhận 549.874.520đồng tiền bồi thường.

    Bà Dương Thị Minh Mão tranh chấp tiền đền bù do giải tỏa và phần diện tích đất còn lại sau giải tỏa là 24m2 với bà Phan Thị Hồng Huệ. Bà Mão cho rằng bà mua căn nhà trên của bà Trần Thị Nguyệt với giá 1.550.000 đồng có làm giấy tay, nhưng đã bị thất lạc. Năm 1977 bà có kê khai đăng ký nhà theo chủ trương của Nhà nước và nhập hộ khẩu tại căn nhà này nên căn nhà trên thuộc quyền sở hữu của bà.

    Bà Huệ không thừa nhận căn nhà trên là của bà Mão, mà cho rằng mẹ của bà là cụ Lê Thị Tiếu nhận chuyển nhượng của bà Nguyệt, sau đó cụ Tiếu làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bà, nên căn nhà này thuộc quyền sở hữu của bà. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như lời khai của bà Mão, cụ Tiếu (là mẹ chồng của bà Mão và mẹ đẻ của bà Huệ), bà Huệ, bà Phan Thị Mười và đơn ủy quyền sử dụng đất ngày 29/5/1989 của bà Phan Thị Mười cho cụ Lê Thị Tiếu có cơ sở xác định căn nhà có tranh chấp có nguồn gốc là của bà Trần Thị Nguyệt, tuy nhiên do căn nhà của bà Nguyệt cất trên phần đất thuê của bà Phan Thị Mười nên sau khi bà Nguyệt chuyển nhượng căn nhà trên cho cụ Tiếu, thì cụ Tiếu phải trả cho bà Mười 2000 đồng tiền thuê đất hàng tháng. Đến năm 1986 cụ Tiếu mới nhận chuyển nhượng đất (diện tích 5 x 20m) của bà Mười với giá 2 chỉ vàng. Như vậy cụ Tiếu là chủ sử dụng hợp pháp đối với phần đất có nhà 106/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

    Bà Mão và bà Huệ đều có lời khai thể hiện mua nhà của bà Nguyệt, có làm giấy mua bán viết tay, nhưng bà Mão có nhiều lời khai mâu thuẫn, lúc thì khai giấy tờ do mẹ chồng là cụ Tiếu giữ; lúc thì khai đã nộp giấy này cho Uỷ ban nhân dân phường Đông Hưng Thuận khi làm thủ tục đăng ký kê khai nhà năm 1977; còn ông Hoa (là chồng của bà Mão) lại khai giấy tờ mua bán đã bị thất lạc. Trong khi đó cụ Tiếu, bà Huệ đều khai có làm giấy viết tay mua bán nhà đất với bà Nguyệt, nhưng giấy này đã bị mất cùng với nhiều giấy tờ khác và xuất trình đơn của cụ Tiếu ngày 15/12/1988 báo cáo Công an ấp Bàu Nai về việc mất giấy tờ do nhà cụ bị kẻ gian lấy trộm trong đó có cả giấy tờ mua nhà l06/1B đường Trường Chinh, giấy báo cáo mất có xác nhận của công an xã Đông Hưng Thuận ngày 19/12/1988. Ngày 03/7/1989 Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn đã có quyết định số 159 hợp thức hoá việc mua bán chuyển nhượng nhà cửa công nhận cụ Tiếu là chủ sở hữu căn nhà số l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1993 trước khi đi xuất cảnh vợ chồng cụ Tiếu lập văn tự mua bán (uỷ quyền) sở hữu căn nhà trên cho bà Phan Thị Hồng Huệ và bà Huệ đã được công nhận là chủ sở hữu căn nhà l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Thực tế ông Hoa được cấp giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà 102/5 Bàu Nai, phường Đông Hưng Thuận, huyện Hóc Môn, thách phố Hồ Chí Minh và bà Huệ được cấp giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà l06/1B đường Trường Chinh cùng ngày 07/6/1993, nhưng ông Hoa cũng không có thắc mắc, khiếu nại về vấn đề này.

    Quá trình giải quyết vụ án, bà Mão cho rằng sau khi mua nhà số l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12 bà đã đăng ký hộ khẩu thường trú tại căn nhà này từ năm 1978 nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên vợ chồng bà thuê mặt bằng đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 để làm ăn còn các con của bà vẫn ở tại nhà l06/1B đường Trường Chinh. Năm 1980 bà cho mẹ chồng bà ở nhờ tại căn nhà này cùng với các con của bà. Còn ông Hoa lại khai năm 1978 mẹ ông là cụ Lê Thị Tiếu về ở chung với vợ chồng ông và nhập hộ khẩu về nhà l06/1B đường Trường Chinh. Năm 1980 vợ chồng ông về ở nhà 102/5 Bàu Nai, phường Đông Hưng Thuận để lại nhà 106/1B đường Trường Chinh cho mẹ ông ở nhờ cùng với các con của ông. Đồng thời ông Hoa không thừa nhận chữ viết trong hồ sơ hợp thức hoá nhà số 106/1B đường Trường Chinh từ cụ Tiếu sang bà Huệ là chữ viết của ông như lời khai của bà Huệ mà ông cho rằng chữ viết trong hồ sơ này là chữ kết của bà Huệ.

    Lẽ ra, trong quá trình giải quyết vụ án Toà án các cấp cần tiến hành xác minh làm rõ nguồn gốc đất và hiện trạng nhà lúc mua bán; bà Nguyệt chỉ bán nhà hay bán nhà gắn liền với đất; trước khi cụ Tiếu đến ở tại nhà số l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận thì ai là người ở căn nhà này; cụ Phan Phổ (là ông nội của bà Huệ) có ở và đứng tên chủ hộ căn nhà l06/1B đường Trường Chinh hay không; lấy lời khai của bà Trần Thị Nguyệt (là người bán nhà) hoặc những người thân của bà Nguyệt để xác định bà Nguyệt bán nhà cho bà Mão hay cụ Tiếu; đồng thời cần xác minh, làm rõ lời trình bày của bà Mười về chủ sử dụng đất khi chuyển nhượng đất cho cụ Tiếu; làm rõ trình tự, thủ tục ban hành quyết định hợp thức hoá việc mua bán chuyển nhượng nhà cửa số159/QĐ-UB ngày 03/7/1989 của Uỷ ban nhân dân huyện Hóc Môn công nhận cụ Tiếu là chủ sở hữu nhà l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận có đúng quy định của pháp luật hay không; giám định chữ viết và chữ ký trong hồ sơ, thủ tục hợp thức hoá chuyển quyền sở hữu từ cụ Tiếu sang bà Huệ để xác định ông Hoa có phải là người làm thủ tục hợp thức hoá căn nhà này như lời khai của bà Huệ . . . để giải quyết vụ án mới đúng

    Toà án các cấp chưa xác minh làm rõ các vấn đề nêu trên mà chỉ căn cứ vào việc bà Huệ được cấp giấy phép công nhận quyền sở hữu nhà số l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh để bác yêu cầu công nhận quyền sở hữu nhà l06/1B đường Trường Chinh, phường Đông Hưng Thuận, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh của bà Mão là chưa có cơ sở vững chắc.

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và khoản 1 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số58/2007/DS-PT ngày 01-03-2007 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tổ thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số1059/2006/DS-ST ngày 27-9-2006 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản “giữa nguyên đơn là bà Dương Thị Minh Mão với bị đơn là bà Phan Thị Hồng Huệ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Hoa, ông Nguyễn Hữu Trí, ông Đinh Tấn Lộc, bà Nguyễn Thị Thu Hồng.

    2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.

     

     
    4816 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận