Quyết định giám đốc thẩm xét xử vu án của Lê Thị Lan Anh về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản"

Chủ đề   RSS   
  • #265494 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vu án của Lê Thị Lan Anh về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản"

    Số hiệu

    29/2010/HS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm xét xử vu án của Lê Thị Lan Anh về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản"

    Ngày ban hành

    01/11/2010

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Hình sự

     

    .....

    Ngày 01-11-2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

    Lê Thị Lan Anh sinh năm 1979 tại Thanh Hóa; có hộ khẩu thường trú tại số nhà 13 , ngõ 24, phố Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, chỗ ở: TK 3/1 Bến Chương Dương, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; có chồng là Nguyễn Phạm Hưng (đối tượng hâm quan trong vụ án đang bị truy nã); bị bắt giam từ ngày 25-3-2008 .

    *Những người bị hại bao gồm:

    1. Bà Nhuyễn Thị Liên sinh năm 1961 là Giám đốc Công ty TNHH Long Thành Đạt; có địa chỉ tại: số 1077 Phan Văn Trị, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

    2. Bà Nguyễn Thị Thu sinh năm 1968 là Giám đốc Công ty TNHH Hiền Thu; có địa chỉ tại số 211A Nguyễn Văn Thủ, phường Đa Kho, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

    3. Bà Nguyễn Thị Tám sinh năm 1971; trú tại số 318B Cách mạng Tháng 8, phường 10, quận 3 , thành phố Hồ Chí Minh.

    Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm:

    Bà Vũ Hải Vân là Chủ Doanh nghiệp Phú Vân; có địa chỉ tại số 25 Lương Ngọc Quyến, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm - thành phố Hà Nội.

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thời còn xác định trong vụ án này có 19 người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

    NHẬN THÂY:

    Bà Vũ Hải Vân- Chủ Doanh nghiệp Phú Vân (chuyên kinh doanh vàng bạc và khách sạn) có mở dịch vụ chuyển tiền nhanh từ thành phố Hổ Chí Minh ra Hà Nội và ngược lại.

    Tháng 8-2002, vợ chồng Lê Thị Lan Anh và Nguyễn Phạm Hưng được bà Vân giao cho việc vào thành phố Hồ Chí Minh làm đầu mối nhận dịch vụ chuyển tiền cho các khách hàng quen thuộc của Doanh nghiệp Phú Vân (thay cho anh Vinh đã xin nghỉ việc) nhưng không được ký kết bằng hợp đồng lao động.

    Đầu năm 2004, bà Vân điều thêm anh Giang Văn Năm vào phụ giúp vợ chồng Lan Anh làm công việc nhận tiền, giao tiền và đếm tiền theo sự chỉ đạo của vợ chồng Lan Anh.

    Trong quá trình làm dịch vụ chuyển tiền cho Doanh nghiệp Phú Vân, vợ chồng Lan Anh đã lợi dụng lòng tin của các khách hàng là bà Nguyễn Thị Liên và bà Nguyễn Thị Thu chiếm đoạt tiền của họ; cụ thể như sau:

    Việc chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị Liên- Giám đốc Công ty Long Thành Đạt: Trong thời gian từ ngày 15-02-2007 đến ngày 12-6-2007, bà Nguyễn Thị Liên đã 40 lần chuyển tiền cho vợ chồng Lan Anh để thanh toán cho Công ty Yamaha Việt Nam với tổng số tiền là 18.215.000.000 đồng. Theo yêu cầu của bà Liên thì vợ chồng Lan Anh đã 25 lần chuyển tiền qua Ngân hàng City Bank vào tài khoản của công ty Yamaha Việt Nam với số tiền là 11.774.000.000 đồng; 04 lần chuyển tiền ra Doanh nghiệp Phú Vân (Hà Nội) để trả cho anh Nguyễn Đức Sơn (anh trai bà Liên) số tiền 103 .700.000 đồng và 02 lần chuyển đến Ngân hàng Công thương Sài Gòn chi nhánh 9 với số tiền là 4.300.000.000 đồng để trả nợ vay Ngân hàng cho Công ty Long Thành Đạt, 01 lần chuyển lại cho Công ty Long Thành Đạt 450.000.000 (BL 375). Tổng số tiền vợ chồng Lan Anh đã chuyển theo yêu cầu của bà Liên là 16.827.700.000 đồng. Số tiền còn lại là l.387.300.000đồng, vợ chồng Lan Anh đã sử dụng cho mục đích cá nhân, sau đó bỏ trốn.

    Việc chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị Thu- Giám đốc Công ty TNHH Hiền Thu: từ ngày 14-4-2007 đến- ngày 13-6-2007, bà Nguyễn Thị Thu đã chuyển cho vợ chồng Lan Anh 1.791.500.000 đồng để trả tiền hàng cho các Công ty Phương Đông, Đông Tuyết, Quốc Hoa, nhưng vợ chồng Lan Anh chỉ chuyển cho Công ty Đông Tuyết 191.500.000 đồng, còn 1,6 tỷ đồng, vợ chồng Lan Anh không chuyển theo yêu cầu mà giữ lại để sử dụng cá nhân, sau đó bỏ trốn.

    Ngoài ra, do tin tưởng Lan Anh nên ngày 16-4-2007, bà Thu đã đặt cọc cho Lan Anh 996.375.000 đồng để mua 500 lượng vàng SJC, thời hạn giao hàng là ngày 16-5-2007; ngày 04-5-2007, bà Thu tiếp tục đặt cọc 1.316.000.000 đồng để mua tiếp 500 lượng vàng SJC nữa; thời hạn giao vàng là ngày 05-6-2007, nhưng Lan Anh đã không thực hiện, sau đó bỏ trốn.

    Lan Anh còn viết giấy biên nhận vay của bà Thu 02 lần vào ngày 04-5- 2007 và ngày 20-5-2007 tổng số tiền là 2.242.400.000 đồng.

    Như vậy tổng số tiền mà vợ chồng Lan Anh đã chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Thu là 6.154.775.000 đồng.

    Về việc chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị Tám : qua việc mua, bán vàng, bà Nguyễn Thị Tám đã đưa cho Lan Anh 211 lượng vàng SJC và 632.422.000 đồng để đặt cọc mua 2.600 lượng vàng SJC (quy đổi 211 lượng vàng SJC tại thời điểm bà Tám đưa Lan Anh là 2.707.130.000 đồng, tổng số tiền mà bà Tám đã đưa Lan Anh là 3.339.552.000 đồng), nhưng Lan Anh đã không thực hiện và sau đó bỏ trốn.

    Quá trình điều tra, Lan Anh khai đã chiếm giữ, sử dụng tiền của bà Thu, bà Liên và bà Tám vào việc mua bán vàng, ngoại tệ với một số cửa hàng vàng tại thành phố Hồ Chí Minh với số lượng lớn. Do bị trượt giá, thua lỗ nên không còn khả năng thanh toán với bà Liên, bà Thu và bà Tám, nên đã bỏ trốn.

    Tính đến ngày bỏ trốn (15-6-2007), Lê Thị Lan Anh và Nguyễn Phạm Hưng đã chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Thị Thu và Nguyễn Thị Tám tổng số tiền là 10.881.627.000 đồng.

    Ngày 01-11-2007, bà Nguyễn Thị Thu và bà Vũ Hải Vân đã ký Biên bản thoả thuận (BL 576B) với nội dung: do bà Thu xuất trình chứng từ là đã chuyển cho Doanh nghiệp Phú Vân (qua vợ chồng Lan Anh) 1,2 tỷ để chuyển cho khách hàng của Phú Vân tại Hà Nội do đó, bà Vân sẽ đưa cho bà Thu 400.000.000 đồng. Nếu sau này vợ chồng Lan Anh trở về, mà có bằng chứng là bà Thu đưa Lan Anh số tiền trên để cho vay hoặc đồng ý chuyển chậm thì bà Thu phải trả lại cho bà Vân 800.000.000 đồng (gấp đôi số tiền bà Vân đã đưa cho bà Thu). Còn nếu có căn cứ rằng Lan Anh đã thông báo, chuyển tiền số tiền trên cho bà Vân thì bà Vân có trách nhiệm trả cho bà Thu 1.600.000.000 đồng. (Biên bản này không đề cập đến nội dung: số tiền 1,2 tỷ trên, bà Thu không cho vợ chồng Lan Anh vay hay sử dụng cá nhân, mà đưa vợ chồng Lan Anh để chuyển tiền cho khách hàng như thông lệ và vợ chồng Lan Anh không báo cho Phú Vân biết như nội dung nêu trên thì trách nhiệm các bên sẽ thế nào ). Tuy nhiên, sau đó bà Thu đã không đồng ý nhận tiền của bà Vân (BL 596).

    Ngày 25-3-2008, Lê Thị Lan Anh đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ Công an đầu thú (BL 22).

    Đối với chồng Lan Anh là Nguyễn Phạm Hưng đang bỏ trốn, cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã số 01 ngày 18-01-2008 (BL 20) và quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 11/C14 ngày 04-11-2008 (BL 63), khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

    Tại Cáo trạng số23/VKSTC-V1A ngày 15-12-2008, Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố Lê Thị Lan Anh về tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự.

    Tại bản án hình sự sơ thẩm số 720/2009/HSST ngày 31-3-2009, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm a khoản 4 Điều 140; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Thị Lan Anh 20 năm tù về tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản"; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25-3-2008 .

    Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự, buộc bị cáo Lê Thị Lan Anh phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng; bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 6.154.775.000 đồng; bồi thường cho bà Nguyễn Thị Tám 632.422.000 đồng và 211 lượng vàng SJC.

    Tiếp tục tạm giữ 120.000.000 đồng số tiền bị cáo đã đặt cọc cho tiệm vàng Kim Thành mà anh Trần huấn Thành (chủ tiệm vàng Kim Thành) nộp trả lại cho Cơ quan điều tra và Cơ quán điều tra đã gửi tại kho bạc Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 921900000027 ngày 29-8-2008 để bảo đảm thi hành án, chi trả cho các bị hại.

    Tiếp tục lê biên diện tích đất và nhà tại 147 Lê Đình Cẩn, phường Tân Tạo, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh (do vợ chồng bị cáo mua của bà Đỗ Thị Lệ từ đầu năm 2006) theo lệnh kê biên số 01 ngày 24-01-2008 của Cơ quan điều tra.

    Tách vấn đề giao dịch mua bán đất giữa bà Đỗ Thị Lệ với vợ chồng Lê Thị Lan Anh thành một vụ kiện dân sự khác .

    Tách vấn đề quan hệ giao dịch kinh tế, dân sự giữa bị cáo với các đương sự khác để giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác, nếu có yêu cầu.

    Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, lãi suất chậm thi hành án và tuyên bố quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

    Ngày 07-4-2009, bà Đỗ Thị Lệ có đơn kháng cáo với nội dung cho rằng việc mua bán căn nhà tại 147 đường Lê Đình Cẩn là vô hiệu vì không đúng quy định pháp luật, nên bà muốn lấy lại căn nhà và trả lại tiền cho vợ chồng bị cáo Lê Thị Lan Anh.

    Ngày 08-4-2009, bà Nguyễn Thị Liên - Giám đốc Công ty TNHH Long Thành Đạt có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị Doanh nghiệp Phú Vân phải có trách nhiệm trả tiền cho bà Liên.

    Ngày 10-4-2009, bị cáo Lê Thị Lan Anh có đơn kháng cáo với nội dung xin xét xử lại vụ án vì đã bỏ lọt người phạm tội là Chủ tiệm vàng Kim Thành và Kim Hiền vì những người này đã chiếm giữ 13 tỷ đồng của bị cáo; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có cha là thương binh chống Mỹ cứu nước.

    Ngày 14-4-2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có quyết định kháng nghị số04/KSĐT-XXHSSTTA với nội dung đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xử phạt tù chung thân đối với bị cáo Lê Thị Lan Anh.

     Ngày 14-4-2009, bà Nguyễn Thị Thu - Giám đốc Công ty NHH Hiền Thu có đơn kháng cáo với nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử buộc Doanh nghiệp Phú Vân phải có trách nhiệm trả lại 1.6 tỷ đồng cho Công ty Hiền Thu vì đó là số tiền Công ty Hiền Thu chuyển cho Doanh nghiệp Phú Vân, Lan Anh chỉ là người làm công ăn lương của Doanh nghiệp Phú Vân, còn số tiền bà tạm ứng cho bị cáo đặt cọc mua vàng thì buộc như bản án sơ thẩm là đúng.

    Tại bản án hình sự phúc thẩm số 583/2009/HSPT ngày 05-8-2009, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị Lan Anh, không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị Lệ, chấp nhận một phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Thu, bà Nguyễn Thị Liên:

    Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 140, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Thị Lan Anh 20 năm tù về tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản";

    Sửa một phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể là: áp dụng điểm a Điều 42 Bộ luật hình sự, buộc chủ doanh nghiệp tư nhân Phú Vân do bà Vũ Hải Vân làm chủ chịu trách nhiệm liên đới cùng bị cáo Lê Thị Lan Anh bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng; buộc bị cáo Lê Thị Lan Anh bồi thường tiếp cho bà Nguyễn Thị Thu 4.554.775.000 đồng, với lý do: bà Liên và bà Thu gzao tiền cho những người làm công của Doanh nghiệp Phú Vân, sau khi sự việc xảy ra. chính bà Vân đã ký biên bản thoả thuận, thừa nhận có phần trách nhiệm vụ những người bị hại;

    Giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 720/2009/HSST về phần: tách giao dịch sang nhượng đất tại số 147 Lê Đình Cẩn, phường Tân Tạo, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh giữa bà Đỗ Thị Lệ và vợ chồng bị cáo Lê Thị Lan Anh thành vụ kiện dân sự khác; tiếp tục kê biên diện tích đất và nhà tại 147 Lê Đình Cẩn, phường Tân Tạo, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh (do vợ chồng bị cáo mua của bà Đỗ Thị Lệ từ đầu năm 2006) theo lệnh kê biên số 01 ngày 24-01-2008 của Cơ quan điều tra;

    Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về phần án phí theo quy định pháp luật.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Vũ Hải Vân khiếu nại cho rằng việc Tòa án cấp phúc thẩm buộc bà liên đới cùng Lê Thị Lan Anh chịu trách nhiệm bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng là không đứng vì Lan Anh không phải là nhân viên của Doanh nghiệp Phú Vân; Lan Anh đã tự làm dịch vụ nhận chuyển tiền của khách hàng sau đó chiếm đoạt.

    Tại Kháng nghị số21/2010/HS-TK ngày 26-7-2010, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 583/2009/HSPT ngày 05-8-2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về quyết định "buộc Chủ doanh nghiệp tư nhân Phú Vân do bà Vũ Hải Vân làm chủ chịu trách nhiệm liên đới cùng bị cáo Lê Thị Lan Anh bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đổng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng; huỷ bản án hình sự sơ thẩm số 720/2009/HSST ngày 31-3-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về phần quyết định buộc bị cáo Lê Thị Lan Anh phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng; và huỷ phần xử lý vật chứng là 120 triệu đồng thu được của bị cáo (do anh Trần Tấn Thành nộp lại cho Cơ quan điều tra), để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật. Tạm đình chỉ thi hành án bản án hình sự phúc thẩm số 583/2009/HSPT về phần quyết định buộc Chủ Doanh nghiệp tư nhân do bà Vũ Hải Vân làm chủ chịu trách nhiệm liên đời cùng bị cáo Lê Thị Lan Anh bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng (một tỷ ba trăm tám mươi bảy triệu ba trăm ngàn đồng), bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng (một tỷ sáu trăm triệu đồng).

     Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

    XÉT THÂY:

    Bà Vũ Hải Vân không thừa nhận Lan Anh là nhân viên của Doanh nghiệp Phú Vân, chỉ khai nhận đã thuê chồng của Lan Anh là Nguyễn Phạm Hưng làm dịch vụ chuyển tiền cho Phú Vân tại thành phố Hồ Chí Minh, trả công Hưng 8 triệu đồng/tháng; trong hồ sơ vụ án không có hợp đồng lao động giữa Hưng, Lan Anh và Doanh nghiệp Phú Vân. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai Doanh nghiệp Phú Vân thuê Nguyễn Phạm Hưng (chồng bị cáo) làm dịch vụ chuyển tiền và trả lương cho Hưng 8 triệu đồng/tháng (BL 598), nhưng tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai việc vợ chồng bị cáo vào thành phố Hồ Chí Minh là do bà Vân chỉ đạo, hai vợ chồng bị cáo làm thuê cho bà Vân, hưởng lương 8 triệu đồng/tháng. Lời khai của những người bị hại là bà Thu, bà Liên, lời khai của những người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác là anh Giang Văn Năm (người được bà Vân thuê vào thành phố Hồ Chí Minh phụ giúp vợ chồng Lan Anh làm dịch vụ chuyển tiền) , lời khai của bà Nguyên Thị Mai (cô của Hưng), lời khai của các khách hàng tại Hà Nội từng nhận tiền chuyển của đối tác qua dịch vụ chuyển tiền Phú Vân (gồm các anh chị: anh Trần Hữu Thành (Công ty Quốc Hoa), chị Trần Thị Bạch Tuyết (Cty Đông Tuyết), anh Cao Thế Tiến Công (Cty Công Thủy),  chị Nguyễn Thanh Mai (Cty Phương Đông), anh Nguyễn Đức Sơn (anh bà Liên), lời khai của chị Lê Thị Linh Đa, anh Nguyễn Bá Thuần, ông Lê Văn Lành, bà Võ Thị Liễu, anh LB văn xẹc Ly, anh Lê Khắc Nghĩa (là những người giúp việc cho Lan Anh) đều thể hiện vợ chồng Lan Anh làm đại diện cho bà Vân, được bà Vân trả lương. Sau khi vợ chồng Lan Anh bỏ trốn, bà Thu tới Doanh nghiệp Phú Vân đòi tiền, bà Vân đã làm Biên bản thoả thuận và đưa cho bà Thu 400 triệu đồng, điều này thể hiện bà Vân thừa nhận vợ chồng Lan Anh có làm thuê cho bà Vân. Xét mối quan hệ thì Lan Anh là cháu họ của bà Vân còn Nguyễn Phạm Hưng là chồng Lan Anh; hàng ngày Lan Anh là người cộng sổ sách, và liên lạc với Doanh nghiệp Phú Vân ngoài Hà Nội suốt 4-5 năm liền, nên việc bà Vân khai chỉ thuê một mình Hưng làm việc cho bà Vân là không có cơ sở.

    Theo quy định tại Điều 622 Bộ luật dân sự: trong những trường hợp khi làm dịch vụ chuyển tiền cho Phú Vân, Hưng và Lan Anh nhận tiền của khách hàng nhưng không chuyển lại cho Phú Vân để chuyển cho đối tác theo yêu cầu của khách, mà chiếm đoạt thì bà Vân có trách nhiệm bồi thường cho khách và có quyền yêu cầu Hưng, Lan Anh hoàn trả theo quy định của pháp luật.

    Theo Điều 28 Bộ luật lao động thì chỉ trừ trường hợp đối với một số công việc có tính chất tạm thời mà thời hạn dưới 3 tháng hoặc đối với lao động giúp việc gia đình thì các bên có thể giao kết bằng miệng, còn đối với các hợp đồng lao động khác đều phải được ký kết bằng văn bản; do đó, việc Hưng và Lan Anh làm việc cho Doanh nghiệp Phú Vân không ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản là không đúng. Tuy nhiên, theo quy định tại các điều 122, 127, 134 và 401 Bộ luật dân sự thì việc vợ chồng Lan Anh làm công cho Doanh nghiệp Phú Vân tuy không ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản nhưng sự giao kết này vẫn được thừa nhận; đối tượng của giao kết là một công việc phải làm. Việc vi phạm về hình thức hợp đồng không làm chấm dứt nghĩa vụ dân sự giữa các bên cũng như trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra.

    Xét về từng trường hợp cụ thể trong vụ án này cho thấy:

    - Đối với số tiền 632.422.000 đồng và 211 lượng vàng SJC mà vợ chồng Lan Anh chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Tám. Xuất phát từ quan hệ tình cảm cá nhân, bà Tám là bạn học của Nguyễn Phạm Hưng (chồng Lan Anh), tin tưởng nên bà Tám đã giao tiền và vàng cho Lan Anh đặt cọc mua vàng nhưng sau đó bị Lan Anh chiếm đoạt, sử dụng cá nhân, không có khả năng chi trả rồi bỏ trốn; do đó Tòa án cấp sơ thẩm buộc Lan Anh phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Tám số tiền và vàng trên là đúng pháp luật.

    Đối với số tiền 4.554.775.000 đồng mà Lan Anh chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Thu. Đây là số tiền mà bà Nguyễn Thị Thu giao cho Lan Anh để đặt cọc mua vàng và tiền. Lan Anh ký nhận vay bà Thu với tư cách cá nhân, nên Tòa án các cấp buộc Lan Anh phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Thu số tiền trên là đúng pháp luật.

    - Đối với số tiền 1.600.000.000 đồng mà Lan Anh chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Thu. Bà Thu là khách hàng thường xuyên của Doanh nghiệp Phú Vân. Như thông lệ, bà Thu chuyển 1.600.000.000 đồng cho khách hàng qua dịch vụ chuyển tiền của Phú Vân (thông qua vợ chồng Lan Anh). Vợ chồng Lan Anh nhận tiền với tư cám là người làm công cho Doanh nghiệp Phú Vân, nhưng san đó đã không báo và không chuyển số tiền trên cho Doanh nghiệp Phú Vân, chiếm đoạt để sử dụng cá nhân, không có khả năng chi trả; do đó, theo quy định tại Điều 622 Bộ luật dân sự năm 2005 thì Doanh nghiệp Phú Vân phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Thu khoản tiền này và có quyền yêu cầu vợ chồng Lan Anh hoàn trả Tòa án cấp phúc thẩm quyết định buộc chủ Doanh nghiệp Phú Vân liên đới cùng Lan Anh bồi thường cho bà Thu là không chính xác.

    - Đối với số tiền 1.387.300.000 đồng mà Lan Anh chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Liên (Công ty Long Thành Đạt) . Xét lời khai của Lan Anh và lời khai của người bị hại là bà Nguyễn Thị Liên tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm thì sau một thời gian làm dịch vụ chuyển tiền cho Phú Vân, bà Liên là khách hàng thường xuyên nên có quan hệ thân thiết với Lan Anh. Lan Anh đã đặt vấn đề với bà Liên rằng nếu bà Liên có tiền dư thì cứ chuyển trước cho Lan Anh, khi nào cần chuyển cho khách hàng thì Lan Anh sẽ chuyển không tính cước phí và sẽ tính lãi theo ngày trên số tiền mà Lan Anh giữ của bà Liên và bà Liên đã đồng ý. (Bà Liên khai không tính lãi với Lan Anh, nhưng thừa nhận đã đồng ý cho Lan Anh sử dựng tiền trong thời gian bà Liên chưa cần chuyển tiền cho ai và Lan Anh sẽ không tính cước phí chuyển tiền của bà Liên) . Thời gian từ tháng 02 đến tháng 06 - 2007, bà Liên đã chuyển cho Lan Anh 40 lần, tổng cộng 18.215.000.000 đồng. Theo yêu cầu của bà Liên, Lan Anh đã chuyển cho khách hàng của bà Liên 16.827.000.000 đồng. Còn Lan Anh vẫn giữ 1.387.300.000 đồng. Bà Liên chưa yêu cầu chuyển cho ai thì Lan Anh dùng vào việc mua bán vàng, bị thua lỗ không còn khả năng chi trả, nên bỏ trốn. Lan Anh còn khai bà Vân không biết sự thoả thuận giữa Lan Anh và Công ty Long Thành Đạt. Bà Liên đồng ý để Lan Anh sử dụng tiền khi chưa phải trả cho khách hàng (BL 146, 508). Mặt khác, Doanh nghiệp Phú Vân làm việc theo phương thức chuyển trả tiền cho khách hàng và quyết toán ngay trong ngày. Điều này được ghi nhận vào các mẫu hóa đơn biên nhận tiền. Các chứng từ thể hiện việc bà Liên chuyển tiền nhưng không yêu cầu Lan Anh chuyển ngay toàn bộ số tiền cho khách hàng mà để cho Lan Anh giữ, sử dụng số tiền trên phù hợp với lời khai của Lan Anh và của bà Liên. Như vậy, mặc dù Lan Anh nhận số tiền 1.387.300.000 với tư cách là nhân viên của Doanh nghiệp Phú Vân, nhưng số tiền vẫn chưa được đưa vào hoạt động chuyển tiền của Doanh nghiệp Phú Vân vì đây là tiền bà Liên chuyển trước cho Lan Anh để Lan Anh sử đựng riêng (có nghĩa việc Lan Anh sử dụng số tiền 1.387.300.000 là có sự đồng ý của chủ sở hữu là bà Liên) . Đây là quan hệ riêng giữa bà Liên và Lan Anh. Doanh nghiệp Phú Vân không có trách nhiệm phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên trong trường hợp này. Tòa án cấp phúc thẩm buộc chủ Doanh nghiệp Phú Vân là bà Vũ Hải Vân liên đới cùng bị cáo bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên là không đúng.

    Ngoài ra, Tòa án các cấp còn có những sai lầm, thiếu sót sau:

    - Về tố tụng: Tại phiên tòa sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Liên và bà Nguyễn Thị Thu có đề nghị Doanh nghiệp Phú Vân phải có trách nhiệm trả tiền cho bà Liên và bà Thu (BL 488, 489), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết, không nhận định cũng không quyết định gì là sai lầm nghiêm trọng. Khi xét xử phúc thẩm, mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết và quyết định gì về yêu cầu buộc Doanh nghiệp Phú Vân liên đới cùng bị cáo Lê Thị Lan Anh bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên và bà Nguyễn Thị Thu, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm lại quyết định buộc chủ Doanh nghiệp tư nhân Phú Vân do bà Vũ Hải Vân làm chủ chịu trách nhiệm liên đời cùng bị cáo Lê Thị Lan Anh bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng (một tỷ ba trăm tám mươi bảy triệu ba trăm nghìn đồng), bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng (một tỷ sáu trăm triệu đồng) là trái với quy định tại Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự, ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Vũ Hải Vân.

    - Về áp dụng pháp luật: Lê Thị Lan Anh cùng chồng là Nguyễn Phạm Hưng đã có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt của các bà Nguyễn Thị Thu, Nguyễn Thị Liên và Nguyễn Thị Tám tổng số tiền là 10.881.627.000 đồng. Tòa án các cấp áp dụng khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Thị Lan Anh 20 năm tù về tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" là có căn cứ. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo là không chính xác vì mức hình phạt 20 năm tù mà Tòa án các cấp áp dụng đối với bị cáo Lê Thị Lan Anh vẫn nằm trong khung hình phạt tù quy định tại khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự, và bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ quy định tải điểm p khoản 1 Đúng 46 Bộ luật hình sự.

    - Tòa án cấp phúc thẩm buộc bà Vũ Hải Vân - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Phú Vân liên đời cùng bị cáo bồi thường cho người bị hại, nhưng không áp dụng Điều 622 Bộ luật dân sự, mà chỉ áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự là thiếu sót.

    - Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, nhưng lại tuyên giữ nguyên quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm là không đúng.

    Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tiếp tục tạm giữ 120.000.000 đồng của bị cáo đã đặt cọc cho tiếm vàng Kim Thành mà anh Thành nộp lại cho Cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra đã nộp cho Kho bạc Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 921900000027 ngày 29-8-2008 để bảo đảm thi hành án, chi trả cho các bị hại nhưng không tuyên bố số tiền trên được chi trả cho các bị hại nào, theo tỷ phần như thế nào, vì Lê Thị Lan Anh phải thi hành 03 khoản nợ là trả cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng; trả cho bà Nguyễn Thị Thu 6.154.775.000 đồng và trả cho bà Nguyễn Thị Tám 3.339.552.000 đồng (gồm 632.422.000 đồng và 21 1 lượng vàng SJC).

    Tại Biên bản phiên tòa hình sự phúc thẩm ngày 05-8-2009 thể hiện: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa có ý kiến "không có căn cứ buộc Doanh nghiệp Phú Vân liên đới cùng Lê Thị Lan Anh trả tiền" (BL 597, 596), nhưng tại bản án hình sự phúc thẩm số 583/2009/HSPT, Hội đồng xét xử phúc thẩm lại nhận định: Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị sửa án sơ thẩm về phần trách nhiệm bồi thường theo hướng buộc Chủ Doanh nghiệp Phú Vân cùng phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường chung với bị cáo(tr 7) là không chính xác".

    Vì các lẽ trên, căn cứ vào Điều 279, Điều 285, Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,

    QUYẾT ĐỊNH:

    1. Huỷ bản án hình sự phúc thẩm số 583/2009/HSPT ngày 05-8-2009 nêu trên về quyết định "buộc Chủ doanh nghiệp tư nhân Phú Vân do bà Vũ Hải Vân làm chủ chịu trách nhiệm liên đời cùng bị cáo Lê Thị Lan Anh bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng".

    2. Huỷ bản án hình sự sơ thẩm số 720/2009/HSST ngày 31-3-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về quyết định buộc bị cáo Lê Thị Lan Anh phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Nguyễn Thị Liên 1.387.300.000 đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thu 1.600.000.000 đồng.

    3. Huỷ bản án hình sự sơ thẩm số 720/2009/HSST về quyết định xử lý vật chứng là 120 triệu đồng thu được của bị cáo (do anh Trần Tấn Thành nộp lại cho Cơ quan điều tra).

    4. Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 720/2009/HSST và bản án hình sự phúc thẩm số 5 83/2009/HSPT về quyết định án phí dân sự.

    Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

     

     
    6672 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận