Số hiệu
|
24/2008/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp quyền sử dụng đất"
|
Ngày ban hành
|
06/10/2008
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
……..
Ngày 06 tháng 10 năm 2008, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Nghệ, sinh năm 1951; trú tại số 1 ấp Thông Lưu B, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Bị đơn: Ông Trịnh Văn Xệ sinh năm 1939; trú tại số 163 ấp Trà Ban 1, xã Châu Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22-4-1997 và quá trình tố tụng nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Nghệ trình bày:
Diện tích đất tranh chấp giữa bà với ông Trịnh Văn Xệ là 655m2 (trong đó có 167,4m2 đất ao) tại thửa số 01, tờ bản đồ số 15 ấp, Thông Lưu B, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, có tứ cận: phía tây giáp sông; phía đông và phía nam giáp đất của bà; phía bắc giáp đất của bà Trần Ngọc Hương. Nguồn gốc diện tích đất trên là của cha, mẹ chồng của bà là cụ Lê Văn Đại và cụ Phạm Thị Nhứt khai phá. Từ năm 1960 đến năm 1970 cụ Đại cho mẹ vợ của ông Xệ là cụ Nguyễn Thị Sinh mượn 300m2 đất ở (ngang 15m dài 20m). Năm 1974 cụ Đại cho vợ chồng bà 15 công đất với diện tích là 13.620 m2 (trong đó có phần đất cụ Sinh mượn). Năm 1976 bà yêu cầu chính quyền xã buộc ông Xệ trả lại đất, nhưng chính quyền đã động viên bà tiếp tục cho ông Xệ mượn diện tích cũ và mượn thêm đất nên bà đã cho ông Xệ mượn thêm diện tích đất ngang 11m, dài 12m và thoả thuận khi nào con của bà lớn thì ông Xệ sẽ trả lại đất, nhưng ông Xệ không trả mà còn lấn chiếm sang phần diện tích ao của gia đình bà nên bà yêu cầu ông Xệ phải trả lại toàn bộ diện tích 655m2.
Bị đơn là ông Trịnh Văn Xệ trình bày: diện tích đất có tranh chấp giữa ông và bà Nghệ là 655m2. Năm 1962 cụ Đại (cha chồng của bà Nghệ) cho cụ Sinh (mẹ vợ của ông) mượn 20m2 (ngang 4m dài 5m) có tứ cận: phía tây giáp sông; phía đông và phía nam giáp đất của cụ Đại; phía bắc giáp đất của bà Trần Ngọc Hương. Năm 1976 giữa bà Nghệ và ông có tranh chấp đất và chính quyền địa phương có giải quyết cho ông thêm diện tích ngang 4m dài 12m (sau phần đất cụ Đại cho mượn). Trong quá trình sử dụng ông lấn ra phía tây giáp kênh dài thêm 18m, ngang 21m và lấn chiếm phần đất giáp đất của bà Nghệ (trong đó có cái ao). Ông Xệ chỉ đồng ý trả cho bà Nghệ phần diện tích mà chính quyền xã đã giải quyết cho ông được ở thêm là 48m2 (ngang 4m dài 12m), còn phần đất cụ Đại cho mượn và phần lấn chiếm, phần diện tích ao ông không đồng ý trả.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 139/DSST ngày 15-7-1997, Toà án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu quyết định:
Buộc ông Xệ phải giao trả quyền sử dụng trên diện tích 655 m2 đất thổ cư đất vườn và ao cho bà Nguyễn Thị Nghệ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định số 246/3 ngày 30-4-1994 của Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lợi tại thửa số 01.
Duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02 ngày 05-4-1997 của Toà án nhân dân huyện Vĩnh Lợi.
Ngoài ra Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo.
Ngày 16-7-1997 ông Xệ kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung không đồng ý trả lại đất.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 96/PTDS ngày 16-9-1997, Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu quyết định:
- Sửa một phần bản án sơ thẩm.
Xử : Cho ông Trịnh Văn Xệ tiếp tục được sử dụng 220m2 đất vườn, xác định vị trí :
+ Phía bắc giáp Trà Ban 1, chiều dài 20m;
+ Phía nam giáp phần đất giao lại cho bà Nghệ dài 20m;
+ Phía tây giáp sông (lộ) dài 11m;
+ Phía đông giáp phần đất giao lại cho bà Nghệ dài 11m và hiện nay ông Xệ đang cất nhà ở trên phần đất đó.
- Buộc ông Xệ có trách nhiệm giao lại cho bà Nghệ 455m2 đất vườn và ao theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 246/3 ngày 30-04-1994 của Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu và hoàn lại giá trị đất cho bà Nghệ bằng 14.936.000 đồng.
- Hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02 ngày 05-4-1997 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi.
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Ông Xệ khiếu nại.
Tại Quyết định số25/KN-DS ngày 17-3-1998, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên; đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 139/DSST ngày 15-7-1997 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi và bản án dân sự phúc thẩm số 96/PTDS ngày 16-9-1997 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu; bác yêu cầu đòi đất của bà Nghệ đối với ông Xệ trên diện tích đất thổ cư và vườn mà ông Xệ đang quản lý, sử dụng; giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu giải quyết tiếp theo Công văn số 11 ngày 24-02-1998.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 109 ngày 15-4-1998, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết định :
Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 139/DSST ngày 15-7-1997 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi và bản án dân sự phúc thẩm số 96/DSPT ngày 16-9-1997 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu; giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử lại theo trình tự sơ thẩm.
Tại Quyết định số 09/QĐ ngày 16-12-1998, Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đình chỉ việc giải quyết vụ án giữa bà Nguyễn Thị Nghệ với ông Trịnh Văn Xệ; chuyển hồ sơ vụ án cho Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu giải quyết theo thẩm quyền.
Tại Quyết định số 26/QĐ.UB ngày 19-01-2000, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đã bác đơn yêu cầu của bà Nghệ về việc xin lại đất thổ cư và vườn tạp.
Tại Quyết định số 529/2000/QĐ.UB ngày 12-9-2000, Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đã thu hồi quyết định số 26/QĐ.UB ngày 19-01-2000 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lợi và chuyển hồ sơ cho Toà án giải quyết theo thẩm quyền.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 31-10-2001, Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Nghệ. Buộc ông Trịnh Văn Xệ phải có trách nhiệm bồi hoàn giá trị quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Nghệ bằng 22.840.200 đồng (hai hai triệu tám trăm bốn mươi nghìn hai trăm đồng).
Chấp nhận cho ông Trịnh Văn Xệ được tiếp tục sử dụng 606 m2 đất thổ cư, đất vườn, đất ao tại thửa số 01 tờ bản đồ số 15 xã Châu Hưng, Vĩnh Lợi có vị trí như sau:
- Đông giáp đất vườn bà Nghệ có cạnh dài 20,20m;
- Tây giáp kinh cặp quốc lộ 1A có cạnh dài 21m;
- Nam giáp đất thổ cư bà Nghệ có cạnh dài 28,80m;
- Bắc giáp đất thổ cư bà Trần Ngọc Hương có cạnh dài 30m.
Huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Nguyễn Thị Nghệ ngày 30-4-1994 tại thửa số 1 tờ bản đồ số 15 xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi. Bà Nghệ, ông Xệ phải đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký kê khai quyền sử dụng đất theo diện tích được sử dụng.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Ngày 12-11-2001, ông Trịnh Văn Xệ kháng cáo không đồng ý trả 1/2 giá trị đất cho bà Nghệ.
Ngày 11-11-2001, bà Nguyễn Thị Nghệ kháng cáo yêu cầu ông Xệ trả lại toàn bộ diện tích đất.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 45/DSPT ngày 22-3-2002, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Huỷ bản án sơ thẩm để điều tra xét xử lại sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu để điều tra xét xử lại sơ thẩm.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 05-8-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu đòi quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Nghệ.
- Buộc ông Trịnh Văn Xệ phải có trách nhiệm bồi hoàn giá trị quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Nghệ bằng 12.852.000 đồng (mười hai triệu tám trăm năm mươi hai ngàn đồng).
- Chấp nhận cho ông Trịnh Văn Xệ được tiếp tục sử dụng 655m2 đất thổ cư, đất vườn tại thửa số 01 tờ bản đồ số 15 xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi có vị trí như sau:
+ Chiều ngang hướng tây giáp sông (quốc lộ 1A) 22,7m;
+ Chiều ngang hướng đông giáp đất bà Nghệ 21m;
+ Chiều dài hướng bắc giáp đất bà Trần Ngọc Hương 30m;
+ Chiều dài hướng nam giáp đất bà Nghệ 30m.
- Huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Nguyễn Thị Nghệ ngày 30-4-1994 tại thửa số 1 tờ bản đồ số 15 xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi. Bà Nghệ, ông Xệ phải đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký kê khai quyền sử dụng đất theo diện tích mỗi bên sử dụng.
- Chi phí đo và định giá đất 2 lần là 750.000 đồng, bà Nghệ đã tạm nộp, ông Xệ phải hoàn lại cho bà Nghệ 375.000 đồng.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Ngày 16-8-2002, bà Nghệ kháng cáo cho rằng việc định giá không phù hợp với thực tế và yêu cầu ông Xệ phải trả đất.
Ngày 19-8-2002, ông Xệ kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông phải bồi hoàn giá trị sử dụng đất là không chính xác.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 147/DSPT ngày 09-5-2003, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Hủy toàn bộ án sơ thẩm số 04/DSST ngày 05-8-2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
Giao toàn bộ hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu điều tra, hoà giải và xét xử lại theo thủ tục chung.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 07-7-2004, Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Nghệ.
- Buộc ông Trịnh Văn Xệ phải có trách nhiệm giao trả cho bà Nghệ diện tích 301.50 m2 đất thổ cư, đất vườn tại thửa số 01, tờ bản đồ số 15 tại xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi (nay là xã Châu Hưng A, tỉnh Bạc Liêu, quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Nghệ đứng tên do Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh Lợi cấp năm 1993, được định vị như sau:
+ Đông giáp đất ruộng của bà Nghệ chiều ngang dài 9,30m;
+ Tây giáp sông chiều ngang 9,30m;
+ Nam giáp đất thổ cư của bà Nghệ chiều dài 32,42m;
+ Bắc giáp đất còn lại của ông Xệ chiều dài 32,42m.
(Chiều dài đo từ mí giáp ruộng bà Nghệ ra hướng sông)
Ông Xệ có trách nhiệm tháo dỡ phần nhà phụ (nhà bếp) có chiều ngang 6,90m, dài 4,40m cây rừng, vách lá, mái tole, nền lót đan trên phần đất giao trả cho bà Nghệ
- Ông Xệ được quyền tiếp tục sử dụng 353,37m2 đất thổ cư, đất vườn tại thửa 01, tờ bản đồ số 15 tại xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi (nay là xã Châu Hưng A), được định vị như sau:
+ Đông giáp đất ruộng của bà Nghệ chiều ngang 10,90m;
+ Tây giáp sông chiều ngang 10,90m;
+ Nam giáp đất giao cho bà Nghệ dài 32,42m;
+ Bắc giáp đất bà Hương chiều dài 32,42m.
(Chiều dài đo từ mí giáp ruộng của bà Nghệ ra hướng sông)
Ông Xệ có trách nhiệm bồi hoàn giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được nhận là 158.523.750 đồng (một trăm năm mươi tám triệu năm trăm hai mươi ba ngàn bảy trăm năm chục đồng)
- Huỷ một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Nghệ đối với diện tích 353,43m2 tại thửa số 01, tờ bản đồ số 15 tại xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi (nay là xã Châu Hưng A).
Bà Nghệ, ông Xệ phải đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký quyền sử dụng đất đối với phần đất được sử dụng theo đúng quy định của pháp luật.
- Bà Nghệ phải hoàn trả ông Xệ giá trị các cây ăn trái do ông Xệ trồng trên phần đất bà được giao sử dụng là 3.289.600 đồng (ba triệu hai trăm tám mươi chín ngàn sáu trăm đồng)
- Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nghệ bồi thường công bồi đắp giữ gìn, chi phí tháo dỡ cho ông Xệ là 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).
- Ông Xệ phải nộp chi phí thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 155.000 đồng tại Phòng Thi hành án tỉnh Bạc Liêu.
- Chi phí đo đạc, định giá đất tranh chấp 1.000.000 đồng, bà Nghệ đã dự nộp buộc ông Xệ phải hoàn trả cho bà Nghệ 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng).
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Ngày 14-7-2004, ông Xệ kháng cáo cho rằng đất đang tranh chấp 655m2 là đất nông nghiệp, gia đình ông đã canh tác sử dụng, kê khai đăng ký, đóng thuế cho Nhà nước trên 40 năm và đã được Uỷ ban nhân dân huyện tạm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đồng ý giao trả cho bà Nghệ.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 123/DSPT ngày 21-4-2005, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Nghệ.
- Buộc ông Trịnh Văn Xệ thanh toán trả cho bà Nguyễn Thị Nghệ giá trị 68m2 đất nền nhà trị giá là 38.216.000 đồng (ba mươi tám triệu hai trăm mười sáu ngàn đồng).
Bác yêu cầu của bà Nghệ đòi ông Xệ phải trả lại 479,46m2 đất ruộng mà chính quyền đã giao cho gia đình ông Xệ canh tác sử dụng từ năm 1976 đến nay (đất này nay đã là đất vườn cây ăn trái, ao nuôi cá do ông Xệ cải tạo)
- Ông Xệ được giữ nguyên hiện trạng đất như hiện nay: phía nam giáp đất thổ cư bà Nghệ; phía bắc giáp đất bà Hương; phía đông giáp đất ruộng bà Nghệ và phía tây giáp kênh rạch và đường bộ.
- Kiến nghị với Phòng địa chính huyện Vĩnh Lợi, Sở địa chính tỉnh Bạc Liêu tiến hành đo vẽ điều chỉnh cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đương sự cho phù hợp với hiện trạng đã nêu.
- Ông Xệ được quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất vườn sau khi đã thi hành án số tiền phải trả cho bà Nghệ xong.
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí và nghĩa vụ do chậm thi hành án.
Ngày 06-6-2005, bà Nghệ có đơn khiếu nại đề nghị xem xét bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm.
Tại công văn số15/ĐN-BPC ngày 07-6-2005, Ban pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số85/2008/KN-DS ngày 18-4-2008, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:
Diện tích đất tranh chấp giữa bà Nguyễn Thị Nghệ với ông Trịnh Văn Xệ là 655m2 (trong đó có 167,4m2 đất ao) có tứ cận phía tây giáp sông (quốc lộ 1A), phía đông giáp đất bà Nghệ, phía bắc giáp đất bà Trần Ngọc Hương, phía nam giáp đất bà Nghệ; tọa lạc tại thửa số 1, tờ bản đồ số 15 ấp Thông Lưu B, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Bà Nghệ cho rằng nguồn gốc diện tích 655m2 là của cha mẹ chồng bà là cụ Lê Văn Đại và cụ Phạm Thị Nhứt khai phá; năm 1960-1970 cụ Đại cho mẹ vợ ông Xệ là cụ Nguyễn Thị Sinh mượn 300m2đất ở (ngang 15m dài 20m), năm 1974 cụ Đại cho vợ chồng bà 15 công tầm điền với diện tích là 13.620m2 đất, trong đó có phần đất bà Sinh mượn; năm 1976 bà yêu cầu chính quyền xã giải quyết việc đòi ông Xệ trả lại đất, nhưng chính quyền đã động viên bà tiếp tục cho ông Xệ mượn thêm đất và bà đã cho ông Xệ mượn thêm diện tích đất ngang 11m, dài 12m khi nào con bà lớn thì sẽ trả lại đất, nhưng ông Xệ không trả mà còn lấn chiếm dần sang phần diện tích ao của gia đình bà và bồi đắp thêm phần đất ra phía sông; việc ông Xệ có thể bồi đắp thêm đất ra phía sông được là trên cơ sở đất bà cho mượn, nên bà yêu cầu ông Xệ phải trả lại toàn bộ diện tích 655m2.
Ông Xệ chỉ thừa nhận vào năm 1962 cụ Đại cho cụ Sinh mượn 20m2 ngang 4m dài 5m có tứ cận phía tây giáp quốc lộ 1, đông giáp đất cụ Đại, phía nam giáp đất cụ Đại, phía bắc giáp đất bà Trần Ngọc Hương; năm 1976 giữa bà Nghệ và ông có tranh chấp đất và chính quyền địa phương có giải quyết cho ông thêm diện tích ngang 4m dài 12m sau phần đất cụ Đại cho mượn; trong quá trình sử dụng ông lấn ra phía tây quốc lộ 1A dài thêm 18m, ngang 21m và lấn chiếm phần đất giáp bà Nghệ sử dụng trong đó có cái ao; ông Xệ chỉ đồng ý trả cho bà Nghệ phần diện tích mà chính quyền xã đã giải quyết cho ông được ở thêm là 48m2 (ngang 4m dài 12m), còn phần đất cụ Đại cho mượn và phần lấn chiếm, phần diện tích ao ông Xệ không đồng ý trả.
Theo các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và lời trình bày của hai bên đương sự, có cơ sở xác định diện tích 655m2 trong đó có 167,4m2 đất ao mà ông Xệ đang quản lý sử dụng là một phần trong toàn bộ diện tích đất thuộc thửa số 1 tờ bản đồ số 15 ấp Thông Lưu B, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu (bà Nghệ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng vào ngày 30-4-1994 với diện tích 920m2 đất thổ cư, lập vườn). Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Xệ và bà Nghệ khai không thống nhất về diện tích đất cụ Đại cho cụ Sinh mượn ban đầu và phần đất khi chính quyền xã giải quyết cho ông Xệ được ở thêm vào năm 1976; lời khai của các nhân chứng là ông Lý Hồng Nhiệm, ông Trần Văn Trọng (những người trực tiếp giải quyết việc tranh chấp giữa bà Nghệ với ông Xệ vào năm 1976) cũng có nhiều mâu thuẫn. Tuy nhiên, dù không đủ căn cứ xác định được diện tích cho mượn ban đầu và thực tế nếu xác định có việc ông Xệ có lấn chiếm đất thì cũng chỉ có thể lấn chiếm sang phía tây giáp bờ sông và sang phần đất của bà Nghệ ở phía nam và phía đông. Bà Nghệ thừa nhận ông Xệ lấn ra sông diện tích 155,54m2 (ngang 20,2 m, dài 7,7m) diện tích còn lại ông Xệ lấn chiếm vào đất và ao của bà; ông Xệ cũng thừa nhận lấn chiếm phần diện tích ao của cụ Đại và lấn ra phía sông. Mặt khác, thực tế trong chiến tranh cụ Đại đã cho nhiều người mượn đất cất nhà ở. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng phần đất cụ Đại cho cụ Sinh mượn là đất nông nghiệp bỏ hoang hoá, trong quá trình sử dụng ông Xệ đã cải tạo bồi đắp thành vườn, ao nuôi cá, được chính quyền giao sản xuất vào năm 1976 từ đó xác định gia đình ông Xệ chỉ mượn 68m2 đất nên chỉ buộc ông Xệ trả cho bà Nghệ giá trị của 68m2 đất là không có căn cứ.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 07-7-2004 Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu và bản án dân sự phúc thẩm nêu trên của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xử sơ thẩm lại.
XÉT THẤY:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì bà Nguyễn Thị Nghệ khởi kiện cho rằng diện tích 655m2 đất (trong đó có 167,4m2 ao) mà ông Trịnh Văn Xệ đang quản lý sử dụng là một phần trong toàn bộ diện tích đất của cha mẹ chồng của bà là cụ Lê Văn Đại và cụ Phạm Thị Nhứt; khoảng từ năm 1960 đến năm 1970 cụ Đại cho cụ Nguyễn Thị Sinh (là mẹ vợ của ông Xệ) mượn 300m2. Năm 1974 cụ Đại cho vợ chồng bà toàn bộ 13.620m2 đất (trong đó có phần đất cụ Sinh mượn). Năm 1976 chính quyền địa phương giải quyết tranh chấp và động viên bà cho ông Xệ mượn thêm một phần đất với điều kiện khi con của bà lớn thì ông Xệ phải trả lại. Trong quá trình sử dụng ông Xệ đã lấn chiếm thêm đất của gia đình bà, trong đó có phần diện tích đất ao nên yêu cầu ông Xệ trả lại toàn bộ diện tích đất trên.
Tuy nhiên, ông Xệ thừa nhận năm 1962 cụ Đại cho mẹ vợ của ông là cụ Sinh mượn chỉ 20m2 đất (4m x 5m); năm 1976 bà Nghệ có tranh chấp và chính quyền địa phương giải quyết chấp nhận cho ông sử dụng thêm 48m2 (4mx12m). Quá trình quản lý sử dụng ông có khai phá thêm đất công và một phần ao của gia đình bà Nghệ.
Có cơ sở xác định có việc cụ Đại cho cụ Sinh mượn một phần đất; có việc từ năm 1976 giữa bà Nghệ và ông Xệ đã có việc tranh chấp quyền sử dụng đất và chính quyền địa phương đã giải quyết. Tuy nhiên, bà Nghệ, ông Xệ khai không thống nhất về diện tích đất mà cụ Đại cho cụ Sinh mượn và không thống nhất về diện tích đất mà chính quyền địa phương đã giải quyết tranh chấp năm 1976. Trong khi đó, ông Lý Hồng Nhiệm và ông Trần Văn Trọng (là cán bộ địa phương năm 1976) cũng có lời khai mâu thuẫn. Trong trường hợp này, lẽ ra, các đương sự phải chứng minh hoặc yêu cầu Toà án phải xác minh làm rõ diện tích đất mà cụ Đại cho cụ Sinh mượn và kết quả giải quyết của chính quyền địa phương năm 1976 thì mới đủ căn cứ giải quyết vụ án. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ về vấn đề nêu trên, nhưng Toà án cấp sơ thẩm buộc ông Xệ dỡ nhà phụ để trả cho bà Nghệ 301,5m2 đất thổ cư, còn Toà án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào lời khai của ông Xệ để cho rằng ông Xệ chỉ sử dụng 68m2 đất của gia đình bà Nghệ và buộc ông Xệ thanh toán giá trị cho bà Nghệ đều không đủ căn cứ.
Tại Công văn số 11 ngày 24-02-1998, Sở Địa chính tỉnh Bạc Liêu xác định năm 1983 ông Lê Văn Bộ (chồng của bà Nghệ) kê khai 920m2 đất thổ cư thửa số 01 tờ bản đồ số 06 ấp Thông Lưu B, khi đó ông Xệ chưa đăng ký kê khai nhưng có tên trong danh sách điều tra ở thửa số 295 tờ bản đồ số 05 ấp Trà Ban 1 là đất thổ cư và đất vườn có diện tích là 2280m2, đồng thời xác định hai thửa đất nêu trên có phần trùng nhau. Trong khi đó tại Công văn số 31 ngày 15-12-1998 Sở Địa chính tỉnh Bạc Liêu lại xác định ngày 30-4-1994 bà Nghệ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 920m2 đất thửa số 01 tờ bản đồ số 15 bao gồm cả diện tích 655m2 đất có tranh chấp đang do ông Xệ quản lý sử dụng. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn này, Toà án phải xác minh làm rõ về quá trình quản lý sử dụng đất, việc kê khai, đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các đương sự, đồng thời xác minh làm rõ về nguồn gốc diện tích đất có tranh chấp và xác minh làm rõ có hay không việc ông Xệ lấn chiếm đất và diện tích đất lấn chiếm là của ai, từ đó mới có đủ cơ sở giải quyết vụ án.
Toà án cấp phúc thẩm xác định phần diện tích 431,46m2 (ngoài phần đất gia đình bà Nghệ cho gia đình ông Xệ mượn) là đất hoang hoá, ông Xệ khai phá để từ đó công nhận ông Xệ có quyền sử dụng diện tích đất này là không đúng. Ngược lại, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng do ông Xệ không chứng minh được công sức bồi đắp cải tạo đất nên chỉ chấp nhận sự tự nguyện bà Nghệ bồi thường cho ông Xệ 8.000.000 đồng tiền di dời và công cải tạo bồi đắp cũng là không có căn cứ.
Những vấn đề cần xác minh làm rõ để giải quyết vụ án nêu trên cần được giải quyết lại từ cấp sơ thẩm.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 123/DSPT ngày 21-4-2005 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 05/DSST ngày 07-7-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa bà Nguyễn Thị Nghệ và ông Trịnh Văn Xệ.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ diện tích đất mà các đương sự tranh chấp.