Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp quyền sử dụng đất"

Chủ đề   RSS   
  • #265385 30/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp quyền sử dụng đất"

    Số hiệu

    21/2008/DS-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "tranh chấp quyền sử dụng đất"

    Ngày ban hành

    30/07/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Dân sự

     

    ……..

    Ngày 30 tháng 7 năm 2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

     Nguyên đơn: Ông Ô Dân Phát, sinh năm 1931; trú tại: số 25 (số mới 226) đường Hoà Hảo, phường 3, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

    Bị đơn: Bà Huỳnh Thị Kim Lành, sinh năm 1953; trú tại: số 24/1, ấp Long Thuận B, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Vinh, sinh năm 1936; trú tại: số 24/1, ấp Long Thuận B, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

    NHẬN THẤY:

    Theo đơn khởi kiện ngày 30-11-2005 và lời khai của ông Ô Dân Phát trong quá trình tố tụng thì:

    Do quen biết với bà Huỳnh Thị Kim Lành nên năm 1992, bà Lành giới thiệu để ông mua diện tích 1.970m2 (thửa số 215) đất thổ vườn tại ấp Long Thuận B, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long với giá 17 chỉ vàng 24K. Do thời điểm đó Nhà nước chưa có chủ trương cho người ngoài tỉnh nhận chuyển nhượng đất, nên ông nhờ bà Lành đứng tên hộ. Sau khi nhận chuyển nhượng đất ông đồng ý để cho bà Lành sử dụng và không phải trả tiền thuê đất, đồng thời thoả thuận miệng với bà Lành khi nào Nhà nước cho phép chuyển nhượng đất cho người ở địa phương khác thì bà Lành phải tạo điều kiện để làm thủ tục chuyển nhượng cho ông. Cuối năm 1996, ông và bà Lành đến UBND xã Long Phước, huyện Long Hồ làm thủ tục chuyển nhượng đất từ bà Lành sang tên ông, mọi thủ tục tiếp theo đều do bà Lành hoàn tất, ông thanh toán đủ mọi chi phí (thuế trước bạ, chi phí hành chính, các loại thuế khác) cho bà Lành. Năm 2000, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quá trình quản lý sử dụng đất bà Lành xây dựng nhà kiên cố ông không biết, từ năm 1996 cũng không có ai tranh chấp đất với ông. Ông yêu cầu bà Lành di dời nhà trả lại đất cho ông, còn cây trồng trên đất thì ông đồng ý bồi hoàn theo biên bản định giá tài sản vào ngày 10-10-2006.

    Ngoài ra ông Phát còn yêu cầu bà Lành trả cho ông số tiền mà bà Lành còn nợ là 15.000.000 đồng. 

    Bà Huỳnh Thị Kim Lành trình bày: Năm 1992, vợ chồng bà nhận chuyển nhượng 1.970m2 đất (thửa số 215) của bà Trương Thị Nguyệt Ánh với giá 20 chỉ vàng 24K. Ngày 20-3-1992, bà Ánh lập “tờ chuyển nhượng thành quả lao động" chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho bà với giá 12 chỉ vàng 24K, năm 1993 vợ chồng bà xây dựng căn nhà trên thửa đất nêu trên để ở. Năm 1996, ông Phát và bà có thoả thuận là để ông Phát xây dựng khách sạn trên diện tích đất nêu trên và giao cho bà quản lý kinh doanh, số tiền lãi do kinh doanh chia theo tỷ lệ và phần của bà được trừ dần số tiền mà bà còn nợ ông Phát là 15.000.000 đồng, nên bà đồng ý làm thủ tục chuyển nhượng đất cho ông Phát. Bà không nhận tiền hay vàng của ông Phát, việc bà chuyển nhượng đất cho ông Phát, ông Vinh (chồng của bà) không biết. Năm 2000, ông Lê Văn Vinh biết bà Lành tự ý lập hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông Phát nên đã khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân xã Long Phước để yêu cầu không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phát, nhưng ông Phát vẫn tự làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên bà yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất nêu trên cho vợ chồng bà và đồng ý trả cho ông Phát số tiền nợ 15.000.000 đồng.

    Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn Vinh (chồng của bà Lành) đồng ý như lời trình bày của bà Lành.

    Tại bản án dân sự sơ thẩm số 35/2007/DSST ngày 02-8-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định:

    Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Huỳnh Thị Kim Lành với ông Ô Dân Phát ngày 09-02-1996.

    Bác toàn bộ yêu cầu của ông Ô Dân Phát đòi bà Huỳnh Thị Kim Lành trả 1.970m2 thửa số 215 loại đất thổ quả do Uỷ ban nhân dân huyện Long Hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ô Dân Phát ngày 29-11-2000.

    Công nhận quyền sử dụng 1.970m2 đất thửa 215 loại đất thổ quả toạ lạc ấp Long Thuận B, xã Long Phước thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Lê Văn Vinh và bà Huỳnh Thị Kim Lành.

    Công nhận sự tự nguyện của bà Huỳnh Thị Kim Lành trả cho ông Ô Dân Phát 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng).

    Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

    Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03-8-2007, ông Ô Dân Phát kháng cáo: Không đồng ý với bản án sơ thẩm.

    Tại bản án dân sự phúc thẩm số 345/2007/DSPT ngày 30-10-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

    Sửa bản án dân sự sơ thẩm. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ô Dân Phát.

    Công nhận quyền sử dụng 1.970m2 đất thửa 215 tờ bản số 4 toạ lạc tại ấp Long Thuận B, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Ô Dân Phát theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 978979 ngày 29-11-2000 của Uỷ ban nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Buộc bà Huỳnh Thị Kim Lành và ông Lê Văn Vinh phải giao trả cho ông Ô Dân Phát 1.970m2đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 978979 ngày 29-11-2000 của Uỷ ban nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long và toàn bộ nhà cửa, cây trái trên đất. Buộc bà Huỳnh Thị Kim Lành phải trả cho ông Ô Dân Phát 15.000.000 đồng tiền vay.

    Ghi nhận sự tự nguyện của ông Ô Dân Phát trả cho bà Huỳnh Thị Kim Lành, các khoản:

    - Hỗ trợ di dời 10.000.000 đồng.

    - Giá trị đầu tư xây dựng nhà 30.000.000 đồng.

    - Giá trị cây trồng trên đất 14.000.000 đồng.

    - Tổng cộng là 54.000.000 đồng.

    Được khấu trừ đối với số tiền bà Lành còn nợ, ông Phát phải trả cho bà Lành là 39.000.000 đồng.

    Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

    Sau khi xét xử phúc thẩm, ngày 20-11-2007 bà Huỳnh Thị Kim Lành có đơn khiếu nại với nội dung: Giữa bà với ông Phát chỉ có quan hệ vay mượn, không có việc bà đứng tên giùm ông Phát phần đất diện tích 1.970m2 tại ấp Long Thuận, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, nên việc Toà án công nhận diện tích đất nêu trên cho ông Phát là không đúng. 

    Tại Quyết định số62/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 22-4-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 345/2007/DSPT ngày 30-10-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án sơ thẩm số 35/2007/DSST ngày 02-8-2007 của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và huỷ bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xác minh, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định:

    Nguồn gốc đất đang tranh chấp gồm 1.970m2 đất thửa số 215 tờ bản số 4, loại đất thổ quả, toạ lạc tại ấp Long Thuận B, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long là của bà Trương Thị Ngọc Ánh đã chuyển nhượng cho bà Huỳnh Thị Kim Lành vào ngày 20-3-1992, hai bên có làm giấy viết tay, với giá 1 lượng 2 chỉ vàng 24k, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Long Phước, được Uỷ ban nhân dân huyện Long Hồ chấp thuận ngày 28-3-1992 (BL 212). Cùng ngày 20-3-1992 bà Ánh làm giấy biên nhận viết tay không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với nội dung: Chuyển nhượng diện tích đất trên cho vợ chồng ông Vinh, bà Lành với giá 20 chỉ vàng (BL 228).

    - Ngày 08-02-1996 bà Lành làm giấy yêu cầu ông Phát thanh toán tiền đầu tư trên đất hết 27.615.000đ (BL 214).

    - Ngày 09-02-1996 bà Lành lập hợp đồng theo mẫu chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Phát với giá 50 chỉ vàng (có xác nhận của UBND xã nhưng là bản phô tô).

    - Ngày 18-02-1996 bà Lành làm giấy nhận của ông Phát 1.000.000đ để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất (BL 217).

    - Ngày 27-4-1996 bà Lành viết thư đưa cho ông Vinh chuyển cho ông Phát có nội dung đề nghị ông Phát thanh toán tiền chi phí vào đất và tiền vàng mà bà Lành đã thanh toán hộ.

    - Ngày 29-12-2000 ông Phát được UBND huyện Long Hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (BL 232). Ngày 30-11-2005 ông Ô Dân Phát khởi kiện cho rằng ông là người mua đất và nhờ bà Lành đứng tên giùm, yêu cầu bà Lành bàn giao đất mà bà Lành đã làm thủ tục sang tên, ngày 29-11-2000 ông Phát được Uỷ ban nhân dân huyện Long Hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Xét thấy, sau khi bà Lành nhận chuyển nhượng diện tích đất của bà Ánh từ năm 1992 đến nay bà Lành, ông Vinh vẫn bán hàng, làm nhà, các công trình phụ, sử dụng liên tục và có làm nghĩa vụ thuế với Nhà nước không có việc bàn giao đất. Qua các hợp đồng, việc thanh toán thể hiện duy nhất hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Ánh sang cho bà Lành ngày 20-3-1992 với giá 1 lượng 2 chỉ vàng là có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và có chứng thực là đúng với bản gốc, cùng ngày 20-3-1992 bà Ánh lại lập hợp đồng khác chuyển nhượng cho ông Vinh, bà Lành thể hiện giá 20 chỉ vàng. Ngày 09-02-1996, bà Lành lập hợp đồng chuyển nhượng cho ông Phát với giá 50 chỉ vàng. Các hợp đồng này không có sự xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc có nhưng là bản phô tô. Trong khi đó, về phía ông Phát cho rằng đã đưa cho bà Lành 17 chỉ vàng làm hai lần để trả tiền đất cho bà Ánh, nhưng không có biên nhận tiền vàng để chứng minh cho việc đã thanh toán tiền. Bà Lành không thừa nhận ông Phát đã thanh toán tiền cho bà. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa tiến hành làm rõ và xác định hợp đồng nào là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật để công nhận. Mặt khác chưa xác định rõ công sức của bà Lành, ông Vinh có công gìn giữ tu bổ, cải tạo đấtmà đã xử buộc bà Lành và người liên quan phải trả lại đất cho ông Phát theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 29-11-2000 của UBND huyện Long Hồ: 1.970m2 đất, thửa số 215, tờ bản đồ số 4, loại đất thổ quả; toạ lạc tại ấp Long Thuận B, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long là chưa đủ căn cứ vững chắc, gây thiệt hại đến quyền lợi của một bên đương sự.

    Mặt khác, bản án phúc thẩm có nội dung sửa án sơ thẩm nhưng phần cuối bản án lại tuyên: Bản án dân sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật” là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dân sự và không thể thi hành án được.

    Sau khi có quyết định kháng nghị nêu trên, ngày 12-5-2008 ông Phát có đơn khiếu nại không đồng ý với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    XÉT THẤY:

    Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì nguồn gốc diện tích 1.970m2 đất có tranh chấp là của bà Trương Thị Nguyệt ánh, tuy ngày 20-3-1992 bà ánh lập “tờ chuyển nhượng thành quả lao động " có nội dung chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho bà Lành với giá 12 chỉ vàng 24K, nhưng thực chất ông Phát mới là người nhận chuyển nhượng đất, còn bà Lành chỉ là người đứng tên hộ cho ông Phát vì tại thời điểm sang nhượng đất ông Phát đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh và khi đó Nhà nước chưa có chính sách cho người ngoài tỉnh nhận chuyển nhượng đất, nên ông Phát mới thoả thuận để bà Lành đứng tên hộ. Ngày 09-02-1996, bà Lành ký hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất nêu trên cho ông Phát, là để hợp thức về thủ tục để ông Phát được kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Mặc dù bà Lành không thừa nhận là đứng tên nhận chuyển nhượng đất hộ cho ông Phát, mà cho rằng diện tích đất nêu trên là do vợ chồng bà mua, nhưng về số tiền để mua đất, bà Lành và ông Lê Văn Vinh (chồng bà Lành) có nhiều lời khai không thống nhất; trong khi đó tại biên bản hoà giải ngày 27-10-2005 tại Uỷ ban nhân dân xã Long Phước, bà Lành yêu cầu ông Phát phải cấp lại cho bà 01 thổ cư 300m2 và 01 căn nhà ngang 5m, dài 30m bằng vật liệu bê tông cốt thép thì bà đồng ý trả lại thửa đất cho ông Phát. Bà Lành còn cho rằng bà bị ép buộc nên ký hợp đồng ngày 09-02-1996 chuyển nhượng đất cho ông Phát, nhưng bà Lành không xuất trình được chứng cứ chứng minh; trong khi đó sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông Phát, bà Lành trực tiếp làm các thủ tục chuyển nhượng để ông Phát được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp. Hơn nữa, căn cứ vào nội dung các bức thư tay của bà Lành gửi cho ông Phát (từ sau khi bà Lành ký hợp đồng nhận chuyển nhượng đất từ bà ánh ngày 20-3-1992) thì bà Lành xác nhận là bà đứng tên hộ ông Phát. Như vậy, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh công nhận ông Phát có quyền sử dụng hợp pháp diện tích 1.970m2 đất là có căn cứ; và do đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng không có việc ông Phát nhờ bà Lành đứng tên hộ đối với diện tích đất có tranh chấp là không có cơ sở.

    Tuy nhiên, vợ chồng bà Lành là người giao dịch nhận chuyển nhượng đất từ bà ánh giúp ông Phát, sau đó bà Lành đã làm các thủ tục để ông Phát được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trong quá trình quản lý, sử dụng diện tích đất nêu trên vợ chồng bà Lành còn có công sức tôn tạo, bảo quản đất. Vì vậy, khi giải quyết vụ án cần phải xem xét, xác định công sức của vợ chồng bà Lành để buộc ông Phát thanh toán cho bà Lành. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chưa xem xét vấn đề này là không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự. 

    Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm đã quyết định sửa bản án sơ thẩm, nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn có quyết định là bản án dân sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, là sai.

    Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297 và Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

    QUYẾT ĐỊNH:

    Chấp nhận một phần kháng nghị số62/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 22-4-2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 345/2007/DSPT ngày 30-10-2007 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 35/2007/DSST ngày 02-8-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh long xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.    

    Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:

    Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị đơn đứng tên hộ nguyên đơn đối với diện tích đất tranh chấp là đúng. Tuy nhiên, khi giải quyết vụ án, Tòa án các cấp lại không xem xét công sức tôn tạo, bảo quản đất của bị đơn để buộc nguyên đơn thanh toán cho bị đơn là thiếu sót.

     

     
    3004 | Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn phamthanhhuu vì bài viết hữu ích
    ngocanhnguyen94 (09/10/2013)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận