Số hiệu
|
24/2009/DS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất
|
Ngày ban hành
|
04/09/2009
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Dân sự
|
…..
Ngày 04 tháng 9 năm 2009, tại trụ sở Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên toà giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất” giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Hoàng Xuân Tình sinh năm 1962 và chị Nguyễn Thị Kiêm sinh năm 1964; đều trú tại số nhà 4, khối 6, đường Bắc Sơn, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
Bị đơn: Anh Trần Văn Lê sinh năm 1964 và chị Nguyễn Thị Nương sinh năm 1967; đều trú tại thôn Mai Thành, xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện ngày 24-3-2002 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là anh Hoàng Xuân Tình và chị Nguyễn Thị Kiêm trình bày:
Năm 1986, anh chị được Uỷ ban nhân dân xã Mai Pha cấp một lô đất có chiều dài 17m (giáp mặt đường), chiều rộng 13m; sau đó, anh chị làm nhà cấp 4 khoảng 20m2 tại phần đất này. Năm 1988 anh chị chuyển nhượng cho bà Dương Thị Răm (còn gọi là bà Năm) phần đất có kích thước 7m chiều dài (giáp mặt đường), rộng 13m (không viết giấy tờ). Khoảng năm 1989, anh Triệu Văn Quan ở nhờ nhà này; khi anh Quan chuyển đi thì anh chị cho ông Lý Chí Thức ở nhờ đến tháng 10-1994.
Năm 1995, anh chị cho vợ chồng anh Trần Văn Lê, chị Nguyễn Thị Nương (em ruột chị Kiêm) ở nhờ tại căn nhà cấp 4 nêu trên (không lập giấy tờ). Ngày 20-11-1998 anh Tình viết “Giấy nhượng nhà” để cho vợ chồng anh Lê nhập hộ khẩu tại xã Mai Pha; ngày 21-11-1999 anh Tình viết “Đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà đất” giúp vợ chồng anh Lê có giấy tờ về nhà đất để vay vốn Ngân hàng, chứ thực tế anh chị không bán nhà đất cho vợ chồng anh Lê. Tháng 7/2000 anh Lê hỏi mua nhà đất và anh Tình đồng ý bán, nhưng lúc đó vợ chồng anh Lê không có tiền, nên hai bên chưa thỏa thuận cụ thể về giá cả; anh Tình nói khi nào có tiền thì tính 70% theo giá thị trường tại thời điểm giao tiền. Ngày 03-9-2001, chị Nương đem 5.000.000 đồng đến giao cho chị Kiêm (lúc này anh Tình không có nhà) và bảo là “trả tiền nhà”. Khi biết việc giao tiền, anh Tình không đồng ý và mang trả lại tiền cho anh Lê, nhưng anh Lê không nhận và nói là anh Tình cứ cầm tạm, khi nào Nhà nước trả tiền bồi thường phần nhà đất bị giải toả thì sẽ tính toán sau. Sau đó, anh Tình có trao đổi giá cả nhà đất với anh Lê, nhưng anh Lê cho rằng anh Lê đã trả 5.000.000 đồng và hai bên đã mua bán xong.
Vợ chồng anh Lê đã xây một nhà bếp, chuồng lợn năm 2000. Sau khi nhận 54.000.000 đồng do Nhà nước bồi thường giải toả phần nhà đất thì vợ chồng anh Lê xây móng nhà để làm nhà mới. Anh chị phản đối việc xây móng nhà nhưng anh Lê, chị Nương vẫn tiếp tục cho xây móng nhà.
Vì lý do nêu trên, anh chị yêu cầu Toà án hủy “Giấy nhượng nhà”, “Đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà đất” nêu trên; anh Lê, chị Nương trả nhà đất và số tiền mà Nhà nước đền bù khi giải toả nhà đất để làm đường; anh chị trả lại 5.000.000 đồng cho vợ chồng anh Lê (trong quá trình giải quyết vụ án có lúc anh Tình đề nghị chia cho vợ chồng anh và vợ chồng anh Lê mỗi bên 1/2 thửa đất và 1/2 tiền Nhà nước đền bù; nếu vợ chồng anh Lê không đồng ý thì yêu cầu giải quyết theo pháp luật).
Bị đơn là anh Trần Văn Lê, chị Nguyễn Thị Nương trình bày:
Năm 1995 vợ chồng anh Tình bán cho anh chị căn nhà cấp 4 khoảng 17m2 trên phần đất có kích thước 13m x 17m tại xã Mai Pha, giá 5.800.000 đồng (không viết giấy tờ). Trước đây nhà đất này anh Tình đã nhượng cho ông Lý Chí Thức (anh Tình đã nhận 1.600.000 đồng), nhưng anh Tình không bán nữa và bán lại cho anh chị. Theo yêu cầu của anh Tình, anh chị đã trả cho ông Thức 800.000 đồng (ông Thức có ký giấy biên nhận tiền ngày 05-8-1995). Ngày 20-11-1998 anh Tình viết “Giấy nhượng nhà” cho anh chị. Do anh chị trả cho anh Tình, chị Kiêm 5.000.000 đồng, nên anh Tình viết “Đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà đất” ngày 21-11-1999 và giao giấy tờ nhà đất cho anh chị. Tuy giấy chuyển nhượng nhà đất không ghi giá cả chuyển nhượng, nhưng hai bên thoả thuận miệng giá chuyển nhượng là 5.800.000 đồng; anh chị đã trả đủ số tiền mua bán nhà đất và đã sửa nhà, xây bếp và 01 gian chuồng lợn…
Năm 2001, Nhà nước thu hồi một phần nhà đất (trong đó có nhà vợ chồng anh chị đã mua nêu trên) để làm đường; anh chị đã nhận 96.000.000đồng tiền bồi thường (trong đó có 26.000.000 đồng đền bù đất của bà Răm và anh chị đã trả lại cho bà Răm); diện tích đất còn lại là 135m2. Anh chị đã xây mới căn nhà khoảng 60m2 (mái lợp Prô xi măng) và công trình phụ để sử dụng; do đó, không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn xin huỷ hợp đồng mua bán nhà.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số05/DS-ST ngày 18-6-2002, Toà án nhân dân thị xã Lạng Sơn quyết định:
“1- Ngôi nhà và đất sử dụng vợ chồng anh Trần Văn Lê và chị Nguyễn Thị Nương đang ở thửa 135 bản đồ địa chính số 69 tại Thôn Mai Thành, xã Mai Pha, thị xã Lạng Sơn thuộc sở hữu và sử dụng của vợ chồng anh Hoàng Xuân Tình và chị Nguyễn Thị Kiêm.
2- Buộc vợ chồng anh Trần Văn Lê và chị Nguyễn Thị Nương phải bồi thường khoản tiền nhà và đất là 38.806.000đ cho vợ chồng anh Hoàng Xuân Tình. Trả lại diện tích đất sử dụng không nằm trong quy hoạch là 133m2 cho vợ chồng anh Tình. Mảnh đất có kích thước và tứ cận như sau:
- Phía Đông giáp đường quy hoạch Hùng Vương là 11,2m.
- Phía Tây giáp nhà ông Ngải có kích thước là 8,5m.
- Phía Bắc giáp ngõ Công có kích thước là 13,3m.
- Phía Nam giáp đất bà Ký có kích thước là 13,5m.
Vợ chồng anh Tình được sở hữu một móng nhà trị giá là 11.371.892đ và công trình phụ trị giá 972.000đ. Nhưng vợ chồng anh Hoàng Xuân Tình phải thanh toán trị giá móng nhà và công trình phụ và số tiền 5.800.000đ trả cho vợ chồng anh Trần Văn Lê (11.371.892đ + 972.000đ + 5.800.000đ)=18.143.892đ.
- Hai giao dịch giữa anh Tình và anh Lê viết bằng văn bản có tiêu đề “giấy nhượng nhà” viết ngày 20-8-1998 và “Đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà” viết vào ngày 21-11-1999 là vô hiệu. Huỷ.
- Bác yêu cầu của vợ chồng anh Trần Văn Lê yêu cầu thực hiện hợp đồng mua bán nhà với anh Tình.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong các khoản tiền trên hàng tháng các bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi xuất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định.”
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí.
Tại Thông báo số01/CV-ĐC ngày 02-7-2002, Toà án nhân dân thị xã Lạng Sơn đã đính chính bản án dân sự sơ thẩm số05/DS-ST ngày 18-6-2002 của Toà án nhân dân thị xã Lạng Sơn như sau:
“- Trang 1 dòng 23 ghi (Hoàng) Thị Kiêm nay đính chính sửa lại là Nguyễn Thị Kiêm.
- Trang 3 dòng 11 ghi (Khiêm) nay đính chính lại là Kiêm.
- Trang 3 dòng 17 ghi (Nương) Nay đính chính lại là Kiêm.
- Trang 6 dòng 16 ghi (Tháng 8) nay đính chính lại là Tháng 11.”
Ngày 02-7-2002, anh Hoàng Xuân Tình, chị Nguyễn Thị Kiêm có đơn kháng cáo không đồng ý bồi thường giá trị móng nhà cho vợ chồng anh Lê; không đồng ý trả cho vợ chồng anh Lê 800.000 đồng (trong tổng số tiền 5.800.000 đồng).
Ngày 26-6-2002, anh Trần Văn Lê có đơn kháng cáo cho rằng việc mua bán nhà đất là hợp pháp, không đồng ý trả lại nhà đất cho vợ chồng anh Tình.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số24/DS-PT ngày 25-7-2002, Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định:
“1. Chấp nhận đơn chống án của anh Hoàng Xuân Tình và anh Trần Văn Lê.
2.Sửa án sơ thẩm.
Cụ thể: Xử bác yêu cầu của vợ chồng anh Hoàng Xuân Tình đòi lại nhà đất mà hiện nay vợ chồng anh Trần Văn Lê, chị Nguyễn Thị Nương đang ở tại xóm Mai Thành, xã Mai Pha, thị xã Lạng Sơn. Vì không có căn cứ.
- Vợ chồng anh Lê, chị Nương được sở hữu nhà, sử dụng đất tranh chấp nêu trên.”
Ngoài ra, Toà án cấp phúc thẩm còn có quyết định về án phí.
Sau đó, anh Hoàng Xuân Tình có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại quyết định số28/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 27-3-2003, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm lại theo hướng xác định việc giao dịch dân sự giữa anh Tình với anh Lê là hợp đồng vô hiệu và xử lý theo quy định tại Điều 146 Bộ luật dân sự.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số71/GĐT-DS ngày 23-4-2003, Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao quyết định:
“- Huỷ bản án sơ thẩm số 5/DSST ngày 18-6-2002 của Toà án nhân dân thị xã Lạng Sơn và bản án phúc thẩm số 24/DSPT ngày 25-7-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.
- Giao hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử theo thủ tục sơ thẩm.”
Tại bản án dân sự sơ thẩm số04/DS-ST ngày 22-9-2003, Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định:
“- Xử bác yêu cầu của anh Hoàng Xuân Tình, chị Nguyễn Thị Kiêm yêu cầu đòi huỷ hợp đồng chuyển nhượng nhà đất và đòi lại nhà đất tranh chấp giữa anh Tình và anh Lê đối với nhà đất hiện nay vợ chồng anh Lê đang ở. Tại xóm Mai Thành, xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn.
- Xử cho vợ chồng anh Trần Văn Lê được sở hữu nhà và sử dụng đất tranh chấp trên (nhà đất tại thửa số 135 tờ bản đồ địa chính số 69 xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn).”
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí.
Ngày 28-9-2003, anh Hoàng Xuân Tình có đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm, đề nghị xét xử lại.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 05/DSPT ngày 09-2-2004, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:
“Huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 04 ngày 22-9-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn để giải quyết lại vụ án từ đầu theo quy định của pháp luật.”
Tại bản án dân sự sơ thẩm số01/DS-ST ngày 07-6-2004, Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn quyết định:
“Căn cứ vào điểm 4 Đều 131; Điều 132; Điều 133; Điều 146 BLDS.
- Hợp đồng mua bán nhà, đất giữa gia đình anh Hoàng Xuân Tình với gia đình anh Trần Văn Lê chưa đúng và đủ hình thức như quy định tại Điều 133 Bộ luật dân sự.
- Nay:
- Gia đình anh Trần Văn Lê được tiếp tục sử dụng làm nhà ở trên 95m2 đất có chiều dài mặt đường 7,8m sâu 13m cùng các công trình phụ. Được hưởng toàn bộ số tiền đền bù đất, nhà do Nhà nước lấy làm đường.
- Gia đình anh Hoàng Xuân Tình còn được sử dụng 45m2 với chiều mặt là 3,2m chiều sâu 14,2m nằm ở vị trí tiếp giáp với đất bà Dương Thị Năm (Dăm) nhưng phải bồi thường tiền móng nhà cho gia đình anh Lê ở phần đất được hưởng là 5.900 ngàn (năm triệu chín trăm ngàn đồng).
Nếu anh Trần Văn Lê lấy 45m2 đất phần của anh Tình để sử dụng thì phải thanh toán cho anh Tình với số tiền là 103.500 ngàn (một trăm linh ba triệu năm trăm ngàn đồng) hoặc theo giá thỏa thuận tại thời điểm hai bên giao dịch.”
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 16-6-2004, anh Hoàng Xuân Tình, chị Nguyễn Thị Kiêm có đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.
Ngày 08-6-2004, anh Trần Văn Lê có đơn kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 70/2006/DSPT ngày 23-3-2006, Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định:
“Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Hoàng Xuân Tình, sửa một phần bản án sơ thẩm.
Công nhận một phần hợp đồng mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh Hoàng Xuân Tình với vợ chồng anh Trần Văn Lê.
- Anh Trần Văn Lê và chị Nguyễn Thị Nương, được tiếp tục sử dụng 95m2 đất chiều mặt đường 7,8m, sâu 13m tại thôn Mai Thành, Mai Hoa, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn được sở hữu nhà ở, công trình phụ trên diện tích đất này; được hưởng 47.005.000 đồng tiền đền bù đất đã nhận;
- Anh Hoàng Xuân Tình và chị Nguyễn Thị Kiêm được sử dụng 45m2 đất còn lại, chiều mặt đường 3,2m, chiều sâu 14,2m nằm ở vị trí tiếp giáp phần đất của bà Dương Thị Răm. Nhưng phải thanh toán cho vợ chồng anh Trần Văn Lê 5.900.000 đồng tiền móng nhà nằm trên đất được chia; đối trừ với 23.000.000 đồng tiền đền bù anh Hoàng Xuân Tình được nhận thì vợ chồng anh Trần Văn Lê còn phải hoàn trả vợ chồng anh Hoàng Xuân Tình 17.100.000 đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.”
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Sau đó, anh Trần Văn Lê có đơn khiếu nại bản án phúc thẩm nêu trên và đề nghị công nhận hợp đồng mua bán nhà đất giữa hai bên.
Tại công văn số110/CV-THA ngày 17-3-2008 và công văn số365/CV-THA ngày 18-12-2006, Thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm với lý do: từ cuối năm 2002 đầu năm 2003 gia đình anh Lê đã xây dựng xong ngôi nhà cấp 4 tại vị trí tranh chấp, ngôi nhà có chiều mặt tiền 11,2m, chiều sâu 5,2m cùng với công trình phụ. Tòa án cấp phúc thẩm không tuyên buộc gia đình anh Lê phải tháo dỡ phần nhà và công trình phụ có trên phần đất anh Tình được chia nên cơ quan Thi hành án không thể giao đất cho anh Tình theo quyết định của bản án phúc thẩm.
Tại Quyết định số84/2009/KN-DS ngày 23-3-2009, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 70/2006/DSPT ngày 23-3-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số01/DS-ST ngày 07-6-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 70/2006/DSPT ngày 23-3-2006 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số01/DS-ST ngày 07-6-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Khi giải quyết lại vụ án cần làm rõ thêm phần đất phía trước nhà đất đang tranh chấp (tiếp giáp với vỉa hè) để giải quyết triệt để vụ án.
XÉT THẤY:
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì năm 1986 Uỷ ban nhân dân xã Mai Pha cấp cho vợ chồng anh Hoàng Xuân Tình và chị Nguyễn Thị Kiêm lô đất có kích thước chiều rộng 13m, chiều dài 17m (giáp mặt đường) để làm nhà ở. Sau đó, vợ chồng anh Tình đã làm nhà cấp 4 trên một phần đất. Năm 1988 anh Tình, chị Kiêm chuyển nhượng cho bà Dương Thị Răm (Năm) một phần đất có kích thước chiều dài 7m (giáp mặt đường), chiều rộng 13m. Năm 1995, anh Tình, chị Kiêm đồng ý để cho anh Trần Văn Lê, chị Nguyễn Thị Nương vào ở nhà đất nêu trên. Năm 2001, khi Nhà nước thu hồi phần nhà đất để mở đường Hùng Vương thì anh Lê đứng ra kê khai và nhận tiền đền bù.
Anh Tình và chị Kiêm cho rằng anh chị cho anh Lê, chị Nương ở nhờ nhà đất, chứ không sang nhượng nhà đất cho vợ chồng anh Lê; yêu cầu vợ chồng anh Lê trả nhà đất cho anh chị. Trong khi đó anh Lê, chị Nương cho rằng anh chị đã mua nhà đất này của anh Tình, chị Kiêm, giá 5.800.000 đồng và anh chị đã trả đủ tiền mua bán nhà đất (trong đó vợ chồng anh Lê thay vợ chồng anh Tình trả cho ông Lý Chí Thức 800.000 đồng; chị Kiêm nhận 5.000.000 đồng); đồng thời anh Lê, chị Nương xuất trình “Giấy nhượng nhà” đề ngày 20-11-1998 có nội dung: vợ chồng anh Tình thống nhất nhượng cho anh Lê, chị Nương căn nhà cấp 4 (5m x 3,5m) và mảnh đất có chiều dài 17m, chiều rộng 13m (Giấy nhượng nhà này có chữ ký của anh Tình và anh Lê, xác nhận của ông Trần Đài là Trưởng thôn Mai Thành, xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Mai Pha ngày 20-02-1999); anh Lê, chị Nương còn xuất trình “Đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà đất” đề ngày 21-11-1999 có nội dung khẳng định anh Tình chuyển nhượng nhà đất nêu trên cho anh Lê, chị Nương (Đơn này do anh Tình viết, có chữ ký của anh Tình, anh Lê, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường Hoàng Văn Thụ là nơi anh Tình cư trú và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Mai Pha). Anh Tình cho rằng việc anh viết các giấy sang nhượng nhà đất nêu trên để làm cơ sở cho vợ chồng anh Lê nhập hộ khẩu, nhưng anh Tình, chị Kiêm lại không có tài liệu chứng minh (thực tế thì anh Lê, chị Nương đã nhập hộ khẩu vào thôn Mai Thành, xã Mai Pha từ năm 1997). Tuy các giấy chuyển nhượng đều là bản viết tay và không có chữ ký của chị Kiêm, nhưng thực tế vợ chồng chị Kiêm đã giao nhà đất cho vợ chồng anh Lê từ năm 1995, chị Kiêm đã trực tiếp nhận 5.000.000 đồng (chị Nương trả tiền nhà). Chị Kiêm biết việc mua bán nhà đất mà không phản đối. Do đó, có cơ sở xác định anh Tình, chị Kiêm đã chuyển nhượng nhà đất cho anh Lê, chị Nương. Tuy nhiên, giá mua bán nhà đất chưa được các bên ghi trong giấy chuyển nhượng nhà đất. Anh Lê, chị Nương cho rằng ngoài số tiền mà chị Kiêm đã nhận nêu trên; năm 1995 anh chị còn trả 800.000 đồng cho ông Lý Chí Thức theo yêu cầu của vợ chồng anh Tình, nhưng vợ chồng anh Tình không thừa nhận, còn phía anh Lê cũng không xuất trình được tài liệu chứng minh.
Như vậy, đã xác định được bên bán nhận 5.000.000 đồng tiền bán nhà đất, nhưng giá mua bán nhà đất do hai bên thỏa thuận thì chưa được làm rõ; việc mua bán năm 1995 hay năm 1998? Nếu mua bán năm 1995 thì tại sao đến năm 1998 hai bên mới làm “Giấy nhượng nhà” và “Đơn xin xác nhận quyền sở hữu nhà đất” năm 1999? Vợ chồng chị Nương nói là mua bán nhà năm 1995, nhưng tại sao năm 1999 (theo vợ chồng chị Nương khai) mới mang 5.000.000 đồng trả cho chị Kiêm? Ủy ban nhân dân xã Mai Pha cấp cho vợ chồng anh Tình lô đất kích thước 13m rộng, 17m dài (ghi trên giấy tờ), nhưng thực tế diện tích đất vợ chồng anh Tình được bàn giao sử dụng thời điểm đó có lớn hơn diện tích đất được cấp hay vợ chồng anh Tình hoặc vợ chồng anh Lê có lấn chiếm thêm đất hay không?
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định vợ chồng anh Tình đã nhận 5.000.000 đồng tiền bán nhà đất là đúng, nhưng lại xác định vợ chồng anh Lê đã thay vợ chồng anh Tình trả cho ông Thức 800.000 đồng là không đủ căn cứ; đồng thời xác định hợp đồng mua bán nhà đất vô hiệu, nhưng lại công nhận một phần hợp đồng và chia cho vợ chồng anh Lê tiếp tục sử dụng 95m2 đất (tương ứng với 5.800.000 đồng mà anh Lê, chị Nương khai là đã trả cho vợ chồng anh Tình, ông Thức); chia cho vợ chồng anh Tình 45m2 đất còn lại, là không đúng; mặt khác, trên phần đất mà vợ chồng anh Tình được chia có phần nhà cấp 4, phần nhà bán kiên cố và công trình phụ phía sau do anh Lê, chị Nương xây dựng, nhưng chưa được Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết, là thiếu sót và không thi hành án được.
Tuy nhiên, tại biên bản ghi ý kiến ngày 14-8-2009, anh Tình yêu cầu vợ chồng anh Lê thanh toán cho vợ chồng anh 60.000.000 đồng để kết thúc vụ án; vợ chồng anh Lê cũng thống nhất với đề nghị này của anh Tình, nhưng sau đó vợ chồng anh Lê đã có đơn (đề ngày 15-8-2009) yêu cầu hủy bỏ nội dung thỏa thuận nêu trên. Tại biên bản làm việc ngày 17-8-2009, anh Tình và chị Kiêm đề nghị vợ chồng anh Lê trả cho anh chị 60.000.000 đồng, còn vợ chồng anh Lê được sử dụng đất và số tiền do Nhà nước bồi thường, nếu vợ chồng anh Lê không đồng ý thì yêu cầu giải quyết theo pháp luật; anh Lê cũng đề nghị giải quyết vụ án theo pháp luật.
Do đó, khi giải quyết lại vụ án cần làm rõ các vấn đề nêu trên và chú trọng công tác hoà giải giữa hai bên đương sự (nếu bên mua chưa trả đủ tiền mua nhà đất) để vợ chồng anh Tình nhận tiền; còn vợ chồng anh Lê nhận đất để tiếp tục sử dụng và nhận số tiền Nhà nước bồi thường trước đây; đồng thời, xem xét giải quyết đối với phần đất phía trước nhà đất đang tranh chấp (tiếp giáp với vỉa hè) có chiều rộng một cạnh là 1m, cạnh còn lại là 0,9m, chiều dài 11,50m (phần đất này trước đây chưa được Toà án các cấp đề cập đến); nếu đất này không nằm trong quy hoạch của Nhà nước thì kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục hợp thức hoá quyền sử dụng đất cho đương sự (người được chia nhà đất).
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 70/2006/DSPT ngày 23-3-2006 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số01/DS-ST ngày 07-6-2004 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn về vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất” giữa nguyên đơn là anh Hoàng Xuân Tình, chị Nguyễn Thị Kiêm với bị đơn là anh Trần Văn Lê, chị Nguyễn Thị Nương.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Có việc hai bên mua bán nhà, đất; nhưng Tòa án chưa làm rõ giá mua bán mà hai bên đã thỏa thuận, thời điểm thực hiện việc mua bán. Tòa án xác định hợp đồng là vô hiệu, nhưng lại công nhận một phần hợp đồng là không đúng.