Số hiệu
|
04/2009/HS-GĐT
|
Tiêu đề
|
Quyết định giám đốc thẩm về vụ án Quảng Thị Uân bị kết án về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"
|
Ngày ban hành
|
07/04/2009
|
Cấp xét xử
|
Giám đốc thẩm
|
Lĩnh vực
|
Hình sự
|
……..
Ngày 07 tháng 4 năm 2009, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:
1. Quàng Thị Uân (tức Lò Thị Uân) sinh năm 1967; trú tại đội 6, xã Thanh Yên, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; con ông Quàng Văn Pâng (đã chết) và bà Quàng Thị Nghịt; có chồng và 03 con; bắt giam từ ngày 27-11-2006;
Về nhân thân: ngày 11-11-2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 12 tháng tù về tội “Không tố giác tội phạm”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng.
2. Lò Văn Sương (tức Quàng Văn Sương) sinh năm 1968; trú tại đội 2, xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; con ông Lò Văn Pánh và bà Lò Thị Nghiên; có vợ và 01 con; bắt giam từ ngày 24-11-2006;
Có 01 tiền án: ngày 22-9-2003, bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng; ngày 25-4-2006, Sương nộp 50.000 án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quàng Văn Ánh sinh năm 1969; trú tại đội 18, xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; con ông Quàng Văn Pâng (đã chết) và bà Quàng Thị Nghịt; có vợ và 03 con; bắt giam từ ngày 24-11-2006.
NHẬN THẤY:
Khoảng 20 giờ ngày 24-11-2006, Công an tỉnh Lào Cai bắt quả tang Lò Văn Sương, Quàng Văn Ánh đang vận chuyển trái phép 896,22 gam Hêrôin.
Quá trình điều tra đã xác định:
Ngày 20-11-2006, Quàng Thị Uân nhận được điện thoại của Đinh Hữu Tần hỏi mua 02 bánh Hêrôin. Ngày 21-11-2006, Uân gặp Lò Văn Sương đưa trước cho Sương 10.000.000 đồng và bảo Sương tìm mua 02 bánh Hêrôin.
Sáng ngày 22-11-2006, Lò Văn Sương mua 02 bánh Hêrôin của Vừ A Chu (đã trốn khỏi địa phương) với giá 20.000.000 đồng/01 bánh, Sương đã trả trước 10.000.000 đồng và viết giấy nợ Chu 30.000.000 đồng. Sương mang 02 bánh Hêrôin về nhà và thông báo cho Quàng Thị Uân, Uân đến nhà Sương lấy số Hêrôin này đem về nhà giấu trong bao đựng gạo nếp.
Khoảng 19 giờ ngày 23-11-2006, Quàng Thị Uân thông báo cho Đinh Hữu Tần là đã có Hêrôin và hẹn sáng ngày 24-11-2006 sẽ cho Lò Văn Sương đem đến Lào Cai giao cho Tần, rồi Uân đưa điện thoại cho Sương trao đổi trực tiếp với Tần. Sáng ngày 24-11-2006, Sương đến nhà Uân và gặp Quàng Văn Ánh tại đây, Sương rủ Ánh đi Lào Cai, Ánh đồng ý. Sương cùng Ánh chở bao gạo nếp bên trong có chứa Hêrôin về nhà Ánh và lấy 02 bánh Hêrôin ra khỏi bao gạo, sau đó cho tất cả số Hêrôin này cùng một gói Hêrôin của riêng Ánh (227,97 gam) vào chiếc tất tay của vợ Ánh rồi buộc vào quanh bụng Sương. Ánh dùng xe môtô của mình chở Sương đi Lào Cai, trên đường đi Sương hứa sẽ trả công Ánh 10.000.000 đồng. Đến thành phố Lào Cai thì Sương và Ánh bị bắt quả tang cùng vật chứng là số Hêrôin nêu trên.
Theo kết luận giám định, 03 bánh Hêrôin bị bắt quả tang có tổng trọng lượng là 896,22 gam; trong đó, có 02 bánh còn nguyên vẹn có tổng trọng lượng 668,25 gam, 01 bánh bị vỡ có trọng lượng 227,97 gam.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 66/2007/HSST ngày 22-10-2007, Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20 và Điều 53 Bộ luật hình sự, xử phạt Lò Văn Sương (Quàng Văn Sương) tử hình, Quàng Thị Uân (Lò Thị Uân) tù chung thân, Quàng Văn Ánh tù chung thân, đều về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý"; phạt tiền đối với Sương là 15.000.000 đồng, đối với Uân là 10.000.000 đồng và đối với Ánh là 10.000.000 đồng.
Trong thời hạn luật định, Quàng Thị Uân, Lò Văn Sương, Quàng Văn Ánh, đều kháng cáo xin giảm hình phạt.
Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1222/2007/HSPT ngày 24-12-2007, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số17/2008/HS-TK ngày 23-12-2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án hình sự phúc thẩm số 1222/2007/HSPT ngày 24-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm số 66/2007/HSST ngày 22-10-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên về phần quyết định về tội danh, hình phạt chính, án phí hình sự phúc thẩm đối với Quàng Thị Uân; huỷ bản án hình sự sơ thẩm nói trên về phần quyết định về tội danh, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí hình sự sơ thẩm đối với Quàng Thị Uân; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án hình sự phúc thẩm và bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
XÉT THẤY:
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Quàng Thị Uân, Lò Văn Sương và Quàng Văn Ánh về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, trong vụ án này Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt Quàng Thị Uân mức hình phạt thấp hơn Lò Văn Sương là đánh giá không đúng vai trò, mức độ phạm tội của từng bị cáo, là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự vì Quàng Thị Uân là người khởi xướng, cung cấp tiền, chỉ đạo, điều hành đồng bọn thực hiện tội phạm nên bị cáo là người có vai trò, mức độ phạm tội cao hơn các bị cáo khác và phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án.
Mặt khác, khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm còn có một số sai lầm, thiếu sót như sau:
Tại phiên toà phúc thẩm, Quàng Thị Uân khai “có ông nội được thưởng Huân chương, bố mẹ chồng là gia đình liệt sỹ”. Trong hồ sơ vụ án có bản sao (có công chứng) Huân chương kháng chiến hạng ba của ông Quàng Văn Lẻ, Huân chương chiến công hạng ba của liệt sỹ Lò Văn Phương và bằng Tổ quốc ghi công mang tên liệt sỹ Lò Văn Phương, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét, kiểm tra các tài liệu này để làm rõ mối quan hệ giữa những người nêu trên với bị cáo, làm cơ sở cho việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
Về nhân thân Lò Văn Sương: ngày 22-9-2003 Lò Văn Sương bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng; ngày 25-4-2006 Sương mới chấp hành xong bản án (nộp án phí hình sự sơ thẩm), nên phạm tội lần này là thuộc trường hợp tái phạm. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định Sương không có tiền án và không áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự là thiếu sót.
Về phần xử lý vật chứng: Tòa án cấp sơ thẩm chỉ quyết định “Tịch thu tiêu huỷ một hộp giấy trắng, mặt hộp có ghi vật chứng vụ án Lò Văn Sương, Quàng Văn Ánh” mà không quyết định cụ thể là tịch thu tiêu huỷ số Hêrôin các bị cáo đã mua bán trái phép là áp dụng không đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có các sai lầm, thiếu sót khác trong việc xử lý các vật chứng, các đồ vật khác thu giữ được trong vụ án.
Vì thế, xét thấy cần huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm đối với tất cả các bị cáo để xét xử sơ thẩm lại đánh giá đúng vai trò, mức độ phạm tội của từng bị cáo trong vụ án; xác định lại các tình tiết về nhân thân của các bị cáo như đã nêu trên, từ đó có mức hình phạt đúng quy định của pháp luật và xem xét lại việc xử lý vật chứng của vụ án.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 279; khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH:
Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 1222/2007/HSPT ngày 24-12-2007 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án hình sự sơ thẩm số 66/2007/HSST ngày 22-10-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tiếp tục tạm giam Quàng Thị Uân, Lò Văn Sương và Quàng Văn Ánh cho đến khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Các Tòa án đã quyết định hình phạt không tương xứng với vai trò, mức độ phạm tội của từng bị cáo; chưa xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo; có sai lầm trong việc xử lý các vật chứng.