Quyết định giám đốc thẩm số: 02/2008/KDTM-GĐT ngày 08 tháng 5 năm 2008 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

Chủ đề   RSS   
  • #264082 25/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3535)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4357 lần


    Quyết định giám đốc thẩm số: 02/2008/KDTM-GĐT ngày 08 tháng 5 năm 2008 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

    Số hiệu

    02/2008/KDTM-GĐT

    Tiêu đề

    Quyết định giám đốc thẩm số:02/2008/KDTM-GĐT ngày 08 tháng 5 năm 2008 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng

    Ngày ban hành

    08/05/2008

    Cấp xét xử

    Giám đốc thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

    TÒA KINH TẾ

    ------------------

    Quyết định giám đốc thẩm

    Số:02/2008/KDTM-GĐT

    Ngày 08 tháng 5 năm 2008

    V/v: tranh chấp hợp đồng tín dụng

    CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
    Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
    ----------------------------------

    NHÂN DANH

    NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    TÒA KINH TẾ

    TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI

    Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Hải;

    Các Thẩm phán: Ông Bùi Huy Tiến;

    Bà Nguyễn Thị Tuyết.

    Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Ông Phạm Ngọc Bình-Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Tô Thị Kim Nhung -Thẩm tra viên Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao.

    Ngày 08 tháng 5 năm 2008, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Ngân hàng Công thương Việt Nam.

    Địa chỉ: Chi nhánh Liên Chiểu, 381 Nguyễn Lương Bằng, thành phố Đà Nẵng; có ông Nguyễn Văn Việt – Trưởng phòng kinh doanh Ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh Liên Chiểu, tham gia tố tụng theo Giấy ủy quyền số106/UQ-NHCT18 ngày 01/01/2005 của Tổng Giám đốc Ngân hàng công thương Việt Nam.

    Bị đơn: Công ty kiến tạo đầu tư xây dựng và thương mại tổng hợp 29.

    Địa chỉ: 34 Điện Biên Phủ, thành phố Đà Nẵng; có ông Phạm Công Tuấn – Giám đốc Công ty là người đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng.

    NHẬN THẤY

    Theo trình bày của Nguyên đơn tại đơn khởi kiện số75/CV-NHCT/LC3 ngày 29/3/2007 thì:

    Ngày 10/5/2004, Ngân hàng công thương Việt Nam và Công ty kiến tạo đầu tư xây dựng và thương mại tổng hợp 29 (sau đây gọi tắt là Công ty kiến tạo 29) ký Hợp đồng tín dụng số 04050015/HĐTD. Theo hợp đồng này, Công ty kiến tạo 29 đã nhận nợ số tiền 10.428.595.000 đồng, lãi suất cho vay 0,81%/tháng, lãi suất nợ quá hạn 1,215%/tháng, hạn trả nợ là 10/11/2004, gia hạn đến ngày 09/8/2005.

    Công ty kiến tạo 29 đã trả được 2.956.049.524 đồng nợ gốc và lãi, còn nợ gốc là 7.413.000.000 đồng và lãi tạm tính đến ngày 29/3/2007 là 2.266.009.838 đồng.

    Tài sản thế chấp là toàn bộ vật kiến trúc được xây dựng trên diện tích đất 675.562m2 tọa lạc tại xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định, được các bên thẩm định có giá trị là 3.753.143.000 đồng và 1.252 con bò sữa giống Úc, giá trị 16.343.366.965 đồng.

    Do Công ty kiến tạo 29 không trả nợ đúng hạn, nên Ngân hàng công thương Việt Nam khởi kiện, yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng:

    1-Buộc Công ty kiến tạo 29 trả cho Ngân hàng công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên Chiểu số tiền 9.679.009.838 đồng, trong đó nợ gốc: 7.413.000.000 đồng, nợ lãi 2.266.009.838 đồng (tạm tính đến ngày 29/3/2007);

    2-Nếu Công ty kiến tạo 29 không trả được nợ, thì đề nghị phát mãi toàn bộ khối tài sản đã được công ty thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng số 04050012 ngày 07/5/2004.

    Ngày 09/4/2007 Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tiến hành hòa giải. Hai bên đã thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

    Tại Quyết định số57/2007/QĐST-KDTM ngày 17/4/2007, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

    “a, Công ty kiến tạo đầu tư xây dựng và thương mại tổng hợp 29 xác nhận còn nợ Ngân hàng công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên Chiểu tổng số tiền là 9.715.704.189 đ (chín tỷ, bảy trăm mười lăm triệu, bảy trăm lẻ tư nghìn, một trăm tám mươi chín đồng).

    Trong đó: + Nợ gốc là: 7.413.000.000 đồng

    + Nợ lãi là 2.302.704.189 đồng (tạm tính đến ngày 09/4/2007)

    b, Công ty kiến tạo đầu tư xây dựng và thương mại tổng hợp 29 vi phạm thời hạn trả nợ như đã cam kết nêu trên thì toàn bộ công trình xây dựng cơ sở hạ tầng và vật kiến trúc gắn liền trên đất theo Hợp đồng thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng số 04050012 ngày 07/5/2004 của Công ty kiến tạo đầu tư xây dựng và thương mại tổng hợp 29 tại trang trại bò sữa tập trung xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định sẽ được phát mãi để thu hồi nợ cho Ngân hàng (tài sản này đã được Công ty TNHH Nông Việt ủy quyền cho Công ty kiến tạo đầu tư xây dựng và thương mại tổng hợp 29 có quyền định đoạt thế chấp tại Ngân hàng công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên Chiểu – Giấy ủy quyền ngày 12/4/2004).

    Nên trường hợp Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định thu hồi đất nêu trên của Công ty TNHH Nông Việt thì người được chuyển nhượng thuê đất phải có trách nhiệm đền bù tài sản trên đất cho Ngân hàng công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên Chiểu”.

    Ngày 20/8/2007, Viện kiểm sát nhân thành phố Đà Nẵng có công văn số112/VKS-P1 đề nghị Viện kiểm sát nhân tối cao kháng nghị đối với Quyết định số57/2007/QĐST-KDTM ngày 17/4/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; giao hồ sơ vụ án cho cơ quan công an thành phố Đà Nẵng điều tra xử lý theo pháp luật hình sự.

    Tại Quyết định kháng nghị số04/KN-VKSTC-V12 ngày 10/3/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân tối cao đề nghị Hội đồng xét xử Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số57/2007/QĐST-KDTM ngày 17/4/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giải quyết theo quy định của pháp luật, với lý do:

    - Hành vi của Phạm Minh Thái và Phạm Công Tuấn cùng một số cá nhân có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Việc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng có quyết định số 57/2007 công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã không phản ánh đúng bản chất sự việc vì toàn bộ giá trị nhà xưởng và bò đều do Thái và Tuấn dựng khống để lừa dối vay tiền.

    - Việc thỏa thuận của Phạm Công Tuấn và Ngân hàng công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên Chiểu vi phạm khoản 2 Điều 181, khoản 2 Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự.

    XÉT THẤY

    Ngày 21/10/2003, Công ty kiến tạo 29 do ông Phạm Công Tuấn Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật của Công ty đã ký Hợp đồng số 01/HĐLKLD liên doanh liên kết tìm việc, xây dựng cơ sở hạ tầng và hợp tác kinh doanh với Công ty TNHH Nông Việt (NOVICO) (sau đây viết tắt là Công ty NOVICO) do ông Phạm Minh Thái, Chủ tịch Hội đồng thành viên làm đại diện.

    Công ty NOVICO được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V521744 ngày 4/11/2002, theo đó, Công ty NOVICO có quyền sử dụng 675.562,6mđất tọa lạc tại xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngày 22/8/2003, Công ty NOVICO đã ký hợp đồng kinh tế với ông Lý Hú Xá – Giám đốc Công ty TNHH xây dựng số 48 tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu để xây dựng trang trại nuôi bò sữa trên thửa đất này với giá trị hợp đồng là 1.994.600.400 đồng. Ông Lý Hú Xá đã hoàn thành việc xây dựng trang trại cho Công ty NOVICO. Công ty NOVICO đã thanh toán cho ông Lý Hú Xá được 970.000.000 đồng, còn nợ 1.024.600.000 đồng. Khoản nợ này, hai bên đã xác nhận và đã được Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh thành phố Hồ Chí Minh giải quyết bằng Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số13/QĐ-CNTT ngày 07/03/2005.

    Ngày 12/4/2004, Công ty NOVICO (bên A) và Công ty kiến tạo 29 (bên B) ký hợp đồng ủy quyền với nội dung: Bên A ủy quyền cho bên B thực hiện việc cầm cố, thế chấp các tài sản của bên A để vay vốn Ngân hàng. Tài sản thế chấp bao gồm giá trị đã xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn thành của trại chăn nuôi NOVICO Bình Định theo bản chính Hóa đơn tài chính số 070831 ngày 02/4/2004 là 3.753.143.000 đồng; đàn bò1.252 con với giá trị 16.343.366.965 đồng; bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V521744 do Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định cấp ngày 4/11/2002. Mức vay không vượt quá 12.324.000.000 đồng; bên B được quyền quản lý, sử dụng và định đoạt các tài sản trên; mọi quyết định của bên được ủy quyền coi như quyết định của bên ủy quyền…

    Ngày 10/5/2004, Công ty kiến tạo 29 ký hợp đồng tín dụng số 04050015/HDTC với Ngân hàng công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng để vay 12.423.000.000 đồng với mục đích thực hiện hợp đồng liên doanh liên kết nhập khẩu bò sữa và dê. Thời hạn vay là 06 tháng, lãi suất 0,81%/tháng; tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng số 04050012 ngày 07/5/2004 gồm toàn bộ công trình xây dưng, cơ sở hạ tầng và các vật phụ gắn liền trên đất và 1.252 con bò sữa (Úc) của trang trại Công ty NOVICO theo hợp đồng ủy quyền ngày 12/4/2004.

    Căn cứ các tờ khai Hải quan, thì trước khi ký hợp đồng ủy quyền ngày 12/4/2004, Công ty NOVICO có nhập khẩu bò từ Úc về Việt Nam.

    Như vậy, cho dù hồ sơ xây dựng có bị lập khống, các phiếu nhập kho đàn bò có bị lập khống, thì trên thực tế tài sản gắn liền với đất của Công ty NOVICO như trại chăn nuôi, cơ sở hạ tầng, quyền sử dụng đất và việc nhập khẩu đàn bò Úc là có thật; Còn việc thẩm định giá trị tài sản thế chấp và quản lý tài sản thế chấp, kiểm tra số lượng đàn bò có tại trại của NOVICO ở Bình Định tại thời điểm thế chấp cho đủ như số lượng ghi trong hợp đồng thế chấp hay không là thuộc trách nhiệm của cán bộ ngân hàng. Ngân hàng xem xét quyết định việc cho vay và tự chịu trách nhiệm về rủi ro vốn cho vay, nếu tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho khoản vay. Việc ông Phạm Minh Thái, Phạm Công Tuấn và một số cá nhân lập hồ sơ khống về việc xây dựng trại chăn nuôi và hồ sơ khống đàn bò, có vi phạm pháp luật hay không? Nếu vi phạm, thì việc xử lý các cá nhân này cũng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng công thương Việt Nam và K, vì đây là hai quan hệ pháp luật khác nhau, độc lập với nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, cả nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận khoản nợ 9.715.704.189 đồng trong đó nợ gốc 7.413.000.000 đồng, nợ lãi 2.302.704.198 đồng, không có tranh chấp gì.

    Mặt khác, tại thời điểm Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng thụ lý, giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng nêu trên, chưa có cơ quan có trách nhiệm nào khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với các ông Phạm Minh Thái, Phạm Công Tuấn. Cho nên, việc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng thụ lý giải quyết vụ án là đúng.

    Tuy nhiên, xét hợp đồng thế chấp tài sản số 04050012/HĐTC ngày 07/5/2004, thầy:

    Tại điểm b khoản 1 Điều 4 hợp đồng quy định nghĩa vụ của bên A “Thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật”.

    Tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị định số08/2000/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm quy định:

    “1. Những trường hợp sau đây phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm:

    a) Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu”;

    Tại điểm d khoản 2 Điều 8 Nghị định nêu trên quy định: “Sở Địa chính hoặc Sở Địa chính-Nhà đất, nơi có bất động sản thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với quyền sử dụng đất, bất động sản gắn liền với đất trong trường hợp bên bảo đảm là tổ chức”. Tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp tài sản số 04050012/HĐTC ngày 07/5/2004, gồm bất động sản gắn liền với đất, là tài sản thuộc trường hợp phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Hợp đồng thế chấp tài sản này tuy đã được công chứng, nhưng chưa được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm là Sở địa chính hoặc Sở Địa chính-Nhà đất tỉnh Bình Định theo quy định của pháp luật đã dẫn ở trên. Cho nên, hợp đồng thế chấp tài sản này bị coi là vô hiệu. Khi tiến hành hòa giải, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng không xem xét đến giá trị pháp lý của hợp đồng thế chấp tài sản, đã công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về phần xử lý tài sản của hợp đồng thế chấp bị coi là vô hiệu, là không đúng pháp luật.

    Bởi lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,

    QUYẾT ĐỊNH

    Chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

    Hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số57/2007/QĐST-KDTM ngày 17/4/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

    CÁC THẨM PHÁN

    Bùi Huy Tiến Nguyễn Thị Tuyết

    (Đã ký) (Đã ký)

    THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

    Bùi Thị Hải

    (Đã ký)

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 25/05/2013 10:35:36 SA
     
    3431 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận