Sáng ngày 27/11, trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã thông quaBộ luật Tố tụng Hình sự sửa đổi, đặc biệt trong BLTTHS là quy định cho phép cơ quan điều tra áp dụng biện pháp tố tụng hình sự đặc biệt nhằm phục vụ mục đích điều tra.
Luật quy định thế nào?
Theo quy định tại điều 218, 219 của Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi thì đối tượng áp dụng bao gồm các trường hợp cá biệt sau: phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng, khủng bố, rửa tiền; tội phạm có tổ chức thuộc loại đặc biệt nghiêm trọng; được đề nghị áp dụng bởi người tổ giác tội phạm, người bị hại và áp dụng cho chính họ.
Cơ quan nào có thẩm quyền cho phép
Các cơ quan có thẩm quyền, trách nhiệm áp dụng biện pháp bao gồm:
Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp quân khu có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trường hợp vụ án đang được thụ lý, điều tra ở cấp huyện, cấp khu vực thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, cấp khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, cấp quân khu xem xét, quyết định áp dụng.
Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải ghi rõ thông tin cần thiết về đối tượng bị áp dụng; tên biện pháp được áp dụng; thời hạn, địa điểm; cơ quan tiến hành biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 129 của Bộ luật TTHS
Quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện tưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp này, kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ nếu xét thấy không còn căn cứ để tiếp tục để áp dụng.
Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền và người thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ bí mật.
Thời hạn áp dụng:
Được quy định tại Điều 221: Thời hạn áp dụng biện pháp tố tụng đặc biệt không quá hai tháng kể từ ngày Viện kiểm sát phê chuẩn. Nếu vụ việc phức tạp thì có quyền gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra, tuy tố theo luật định.
Ngoài ra chậm nhất là 10 ngày kể từ khi hết hạn áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt, Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn xem xét, quyết định việc gia hạn.
Mục đích của thông tin, tài liệu thu thập:
Tại khoản 1, Điều 222 yêu cầu thông tin, tài liệu thu thập được bằng phương pháp tố tụng đặc biệt phải gửi cho Viện trưởng Viện kiểm sát đã phê chuẩn và có thể dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án.
Thông tin, tài liệu đó cũng chỉ được dùng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, không được dùng vào mục đích khác; các thông tin không liên quan đến vụ án phải bị tiêu hủy kịp thời.
Đặc biệt không được sử dụng thông tin, tài liệu, chứng cứ thu thập được làm ảnh hưởng đến bí mật đời tư, bí mật gia đình và an toàn cá nhân của người có liên quan hoặc có thể làm phát sinh hậu quả nghiêm trọng khác
Trường hợp áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
Viện kiểm sát đã phê chuẩn phải có trách nhiệm kịp thời hủy bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Có vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Không còn căn cứ để tiếp tục áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Nhìn chung, tuy việc áp dụng biện pháp tố tụng đặc biệt đã được quy định tuy nhiên vẫn còn chưa nhiều vấn đề pháp lý phát sinh có liên quan, đòi hỏi các nhà làm luật phải có sự dự liệu định ra phương pháp giải quyết cho mọi trường hợp.