Theo khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định về hoạt động kinh doanh bất động sản như sau: “Kinh doanh bất động sản là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản; thực hiện dịch vụ môi giới bất động sản; dịch vụ sàn giao dịch bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản hoặc quản lý bất động sản nhằm mục đích sinh lợi.”
Và tại khoản 6 Điều 3 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định về sàn giao dịch bất động sản như sau: “Sàn giao dịch bất động sản là nơi diễn ra các giao dịch về mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản.”
Tại Điều 62 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định:
“Điều 62. Điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản
1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp và phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Cá nhân có quyền kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập nhưng phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản và đăng ký nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
3. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản không được đồng thời vừa là nhà môi giới vừa là một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh bất động sản.”
Căn cứ những quy định trên, sàn giao dịch bất động sản là một trong các hình thức hoạt động kinh doanh bất động sản và là nơi diễn ra các giao dịch về mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản.
Tại khoản 3 Điều 62 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản không được đồng thời vừa là nhà môi giới vừa là một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh bất động sản.
=> Như vậy, trường hợp của bạn, nếu công ty hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản mà có giao dịch mua bán bất động và công ty là một bên thực hiện hợp đồng thì vi phạm pháp luật.
Trường hợp này sẽ bị xử lý theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 59 Nghị định 16/2022/NĐ-CP với mức phạt cụ thể là: Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
Thông tin gửi bạn tham khảo.