Giảm lương của NLĐ làm việc tại nhà - Minh họa
Đợt dịch thứ 4 đã trải qua hơn một tháng, trong thời gian này, nhiều doanh nghiệp cho người lao động (NLĐ) được phép làm việc tại nhà, tuy nhiên đi kèm với đó lại là việc giảm lương, cắt thưởng, v.v… Liệu việc giảm lương này có trái với quy định của pháp luật hay không?
Trách nhiệm của doanh nghiệp và căn cứ trả lương cho NLĐ
Hai nguyên tắc trả lương cho NLĐ được quy định tại Điều 94 Bộ luật lao động 2019 (BLLĐ 2019) như sau:
Thứ nhất: Người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.
Thứ hai: Người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.
Theo hai nguyên tắc trên, ta phải hiểu rằng việc trả lương đầy đủ, đúng hạn cho NLĐ là nghĩa vụ bắt buộc của NSDLĐ.
Tiếp đó, Điều 95 Bộ luật này cũng quy định, việc trả lương “căn cứ vào tiền lương đã thỏa thuận, năng suất lao động và chất lượng thực hiện công việc.”
Theo đó, những căn cứ để quyết định rằng lương của NLĐ có được chi trả đủ hay không không bao gồm “địa điểm làm việc”. Nếu họ làm việc tại nhà nhưng năng suất lao động, chất lượng công việc không bị giảm sút thì không được phép tự ý hạ lương của NLĐ.
Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong kinh doanh do dịch bệnh, phải làm thế nào?
Trong trường hợp ví lý do khó khăn, dịch bệnh mà doanh nghiệp muốn được NLĐ chia sẻ, giúp đỡ, họ có thể căn cứ vào hai quy định sau đây:
*Về việc trả lương chậm:
Khoản Điều 97 BLLĐ 2019 có quy định:
“4. Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.”
Với căn cứ trên, NSDLĐ phải chứng minh được mình đã dùng mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn, sau đó được phép chậm lương của NLĐ thêm 30 ngày.
Tính từ ngày thứ 15 chậm lương, NSDLĐ còn phải trả lãi thêm vào khoản lương chưa thanh toán.
*Về việc thỏa thuận lại lương của NLĐ hoặc đơn phương chấm dứt HĐ:
Nếu NSDLĐ muốn hạ lương của NLĐ, họ phải thực hiện việc thỏa thuận lại điều khoản về lương trong hợp đồng lao động đã ký kết ban đầu, sau đó ghi nội dung này vào phụ lục hợp đồng. (Căn cứ Khoản 1, Khoản 2 BLLĐ 2019). Tuy nhiên, bên nào muốn sửa đổi HĐLĐ thì phải báo trước cho bên kia trước 3 ngày.
Trường hợp không thỏa thuận được thì vẫn phải tiếp tục thực hiện như HĐLĐ ban đầu.
NSDLĐ chỉ có thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ trong các trường hợp:
- Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
- Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
- Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của Bộ luật này;
- Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
- Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên;
- Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Bộ luật này khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.
(Điều 36 BLLĐ 2019)