Những trường hợp vẫn chia thừa kế theo pháp luật dù có di chúc

Chủ đề   RSS   
  • #559084 29/09/2020

    ThienAnhHoa

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:22/09/2020
    Tổng số bài viết (19)
    Số điểm: 170
    Cảm ơn: 6
    Được cảm ơn 30 lần


    Những trường hợp vẫn chia thừa kế theo pháp luật dù có di chúc

    Trường hợp vẫn chia thừa kế theo pháp luật dù có di chúc - Ảnh minh họa

    Trường hợp vẫn chia thừa kế theo pháp luật dù có di chúc - Ảnh minh họa

    Di chúc thể hiện nguyện vọng của người đã khuất về việc chia tài sản của mình để lại cũng như yêu cầu những người hưởng di sản thực hiện nguyện vọng cuối cùng của bản thân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp mặc dù có di chúc nhưng di sản vẫn được chia theo quy định của pháp luật.

    (1) Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

    Căn cứ  Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc có quy định như sau:

    Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

    - Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng

    - Con thành niên mà không có khả năng lao động.

    (2) Những trường hợp thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015

    Người hưởng di chúc không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản

    Những người quy định tại Điều 621 BLDS không được hưởng di sản:

    - Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó

    - Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản

    - Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng

    - Có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

    Nếu thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì người hưởng di sản sẽ không được hưởng theo di chúc trừ trường hợp người để lại di sản đã biết về hành vi của những người này nhưng vẫn cho họ hưởng theo di chúc.

    Ngoài ra, những người được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng từ chối nhận di sản thì di sản sẽ được chia theo pháp luật theo Điều 620 Bộ luật Dân sự.

    Đồng thời, nếu một phần di sản theo di chúc thuộc các trường hợp nêu trên thì phần di sản đó cũng được chia theo pháp luật.

    Người hưởng di chúc chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc

    Theo quy định tại Điều 613 BLDS, người thừa kế là cá nhân:

    - Phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế

    - Đã sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản thừa kế chết.

    Nếu không phải là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

    Trong đó, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết (Điều 611 BLDS).

    Ngoài ra, di chúc sẽ không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần nếu rơi vào một trong các trường hợp nêu tại Điều 643 BLDS như:

    - Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc

    - Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.

    Như vậy, tại thời điểm người hưởng thừa kế theo di chúc chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc cơ quan, tổ chức được nhận thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì di sản sẽ được chia theo pháp luật.

    Di chúc không hợp pháp

    Điều 630 BLDS 2015 nêu rõ, di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

    - Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

    - Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không trái quy định của luật: Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải lập thành văn bản, được cha, mẹ… đồng ý; di chúc của người không biết chữ phải có công chứng

    Di chúc phải lập bằng văn bản (theo Điều 627 BLDS), có thể có người làm chứng hoặc có công chứng, chứng thực. Nếu không thể lập được bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

    Trong đó, di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

    - Người để lại di chúc thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất 02 người làm chứng

    - Ngay sau khi người để lại di chúc thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ

    - Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày người này thể hiện ý chí cuối cùng thì phải công chứng hoặc chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

    Chỉ khi đáp ứng được các điều kiện nêu trên, di chúc mới được coi là hợp pháp. Ngược lại, nếu thiếu một trong số đó, di chúc sẽ không được coi là hợp pháp và di sản sẽ được chia theo pháp luật.

    Như vậy, trong các trường hợp trên dù có di chúc nhưng di sản vẫn có thể được chia theo pháp luật.

     
    3090 | Báo quản trị |  
    2 thành viên cảm ơn ThienAnhHoa vì bài viết hữu ích
    hoamattroi9297 (03/10/2020) ThanhLongLS (29/09/2020)

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận