Từ ngày 26/11/2024, theo Nghị định 126/2024/NĐ-CP, các hội tại Việt Nam sẽ hoạt động dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản, không vì mục tiêu lợi nhuận, và tuân thủ các quy định của pháp luật. Các hội sẽ được tổ chức theo mô hình dân chủ, bình đẳng, công khai và minh bạch.
1. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội từ ngày 26/11/2024
Hội là tổ chức tự nguyện của tổ chức, công dân Việt Nam cùng lĩnh vực, ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. (Khoản 1 Điều 3 Nghị định 126/2024/NĐ-CP)
Căn cứ Điều 5 Nghị định 126/2024/NĐ-CP quy định về Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội như sau:
- Tự nguyện, tự quản.
- Dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch.
- Tự bảo đảm kinh phí hoạt động.
- Không vì mục tiêu lợi nhuận.
- Tuân thủ Hiến pháp, chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và điều lệ hội.
Bên cạnh đó, Hội hoạt động trong phạm vi (theo địa giới hành chính) gồm:
- Hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc hoặc liên tỉnh.
- Hội hoạt động trong phạm vi tỉnh.
- Hội hoạt động trong phạm vi huyện.
- Hội hoạt động trong phạm vi xã (đối với hội sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng được xác định tương đương hội hoạt động trong phạm vi xã).
2. Cơ sở dữ liệu về Hội từ ngày 26/11/2024
Theo Điều 9 Nghị định 126/2024/NĐ-CP thì Cơ sở dữ liệu về hội được kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia và Cổng dịch vụ công của Bộ Nội vụ; cơ sở dữ liệu quốc gia khác, cơ sở dữ liệu của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân cấp huyện để hỗ trợ giải quyết các thủ tục về hội và quản lý hoạt động của các tổ chức hội theo phân cấp. Trong đó, thông tin trong cơ sở dữ liệu về hội gồm:
(1) Thông tin trong cơ sở dữ liệu về hội bao gồm:
- Thông tin được xác lập khi ban vận động thành lập hội đề nghị thành lập hội;
- Bản sao hoặc bản điện tử được ký số hợp lệ của hồ sơ đề nghị thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, đổi tên, phê duyệt điều lệ hoặc sửa đổi, bổ sung điều lệ hội;
- Một số thông tin về nhân sự ban chấp hành hội hoặc tên gọi khác (sau đây gọi chung là ban chấp hành hội), ban thường vụ hội hoặc tên gọi khác (sau đây gọi chung là ban thường vụ hội); chủ tịch, phó chủ tịch hội; cơ cấu tổ chức, trụ sở, số điện thoại, nhiệm kỳ của hội;
- Các báo cáo định kỳ và đột xuất;
- Thông tin về tài sản, tài chính của hội;
- Các thông tin liên quan khác (nếu có);
(2) Thông tin trong cơ sở dữ liệu về hội được xác lập từ các nguồn sau:
- Thông tin được cập nhật trên Cổng dịch vụ công quốc gia và Cổng dịch vụ công của Bộ Nội vụ;
- Thông tin của các hội cung cấp trong hồ sơ đề nghị thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, đổi tên, phê duyệt điều lệ hoặc sửa đổi, bổ sung điều lệ hội;
- Thông tin do hội cập nhật lên cơ sở dữ liệu;
- Thông tin do các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực hội hoạt động cung cấp;
- Thông tin được số hóa, chuẩn hóa từ quyết định giải quyết các thủ tục hành chính về hội;
- Thông tin được chia sẻ, chuyển đổi, chuẩn hóa từ các cơ sở dữ liệu được thiết lập trước đây.
Như vậy, tại Nghị định 126/2024/NĐ-CP thì các hội sẽ tự bảo đảm kinh phí hoạt động và thực hiện đúng các nguyên tắc quản lý nhà nước, phù hợp với Hiến pháp, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, việc quản lý và giám sát hoạt động của các hội sẽ được hỗ trợ bởi hệ thống cơ sở dữ liệu kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia, cung cấp thông tin chi tiết về hội và các hoạt động của hội nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả.