>>> Toàn văn điểm mới Bộ luật hình sự 2015
Để kịp thời hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự 2015 sắp có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết hướng dẫn.
Nội dung chính của Nghị quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự 2015 tập trung vào 02 vấn đề:
01. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
02. Hướng dẫn áp dụng các điều khoản của Bộ luật hình sự 2015 kể từ ngày 01/7/2016.
Chi tiết như sau:
I. Đối với hình phạt quy định tại BLHS 2015 đã bỏ tử hình, đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử
- Từ 18/12/2015, khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm không áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội cướp tài sản, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội chiếm đoạt chất ma túy, tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, tội chống mệnh lệnh, tội đầu hàng địch.
Trường hợp khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, nếu xét thấy hành vi phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng mà theo BLHS 1999 phải áp dụng tử hình thì áp dụng mức phạt cao nhất của điều luật tương ứng BLHS 2015.
- Từ 18/12/2015, không áp dụng tử hình khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
- Trường hợp người phạm tội mà BLHS 2015 đã bỏ tử hình thì người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử bị kết án tử hình trước 18/12/2015 và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành án tử hình thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay Chánh án TANDTC để ra quyết định chuyển hình phạt tử hình sang tù chung thân.
- Người đã bị kết án tử hình vệ tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ trước 18/12/2015 và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành án mà chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với CQĐT hoặc lập công lớn thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay Chánh án TANDTC ra quyết định chuyển hình phạt tử hình sang tù chung thân.
II. Không xử lý hình sự với những hành vi mà BLHS 1999 quy định là tội phạm nhưng BLHS 2015 không quy định là tội phạm
- Từ 18/12/2015, không xử lý hình sự đối với các tội sau theo BLHS 1999:
+ Tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn.
+ Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế.
+ Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp.
+ Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng.
+ Tội không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
+ Người thực hiện hành vi mà theo BLHS 1999 là tội phạm nhưng theo BLHS 2015 thì hành vi đó chưa cấu thành tội phạm do có bổ sung, thay đổi các yếu tố định tội và cấu thành tội phạm đó.
Ví dụ 1: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng dưới mức quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015.
Ví dụ 2: Hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá dưới 5.000.000 đồng, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi tổ chức đánh bạc hoặc chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nhưng đã được xóa án tích.
- Đối với hướng dẫn vừa nêu trên, nếu vụ án trong quá trình xét xử thì phải đình chỉ, nếu bị kết án và đang chấp hành hoặc đang được tạm đình chỉnh thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Nếu bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang hoãn thi hành thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
- Đối với hành vi hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, hành vi kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 165 BLHS 1999 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của BLHS 1999 để xử lý.
Trường hợp vụ án đã được xét xử và đã có bản án, quyết định của Tòa án, thì không được căn cứ vào việc BLHS 2015 không quy định tội danh hoạt động phỉ, tội danh đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội danh kinh doanh trái phép, tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng để kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành án về tội hoạt động phỉ, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội kinh doanh trái phép, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã chấp hành xong bản án thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 để giải quyết.
Nếu sau thời điểm 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, tội kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 BLHS 1999 mà áp dụng quy định của BLHS 2015 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo tội danh tương ứng.
Ví dụ 1: Kể từ 0 giờ 00 ngày 01/7/2016, người thực hiện các hành vi giết người, cướp phá tài sản nhằm chống chính quyền nhân dân quy định tại Điều 83 BLHS 1999 thì tùy từng trường hợp cụ thể sẽ bị xử lý về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, giết người, cướp tài sản hoặc các tội phạm tương ứng khác theo BLHS 2015.
Ví dụ 2: Kể từ 0 giờ 00 ngày 01/7/2016, người thực hiện các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên theo Điều 165 BLHS 1999 thì tùy từng trường hợp sẽ bị xử lý về tội vi phạm quy định về quản lý tài sản của Nhà nước gây thất thoát, lãng phí; vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng; vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu qủa nghiêm trọng hoặc các tội phạm tương ứng khác theo BLHS 2015.
III. Xử lý hình sự người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
- Từ 18/12/2015, chỉ xử lý hình sự người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về các tội:
+ Tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
+ Tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: tội cưỡng dâm, tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi, tội cưỡng đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản, tội trộm cắp tài sản, tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tội sản xuất trái phép chất ma túy, tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma túy, tội chiếm đoạt chất ma túy, tội tổ chức đua xe trái phép, tội đua xe trái phép, tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật, tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, tội khủng bố, tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.
+ Chuẩn bị phạm một trong các tội sau: tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không thuộc trường hợp hướng dẫn trên, nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.
Ngoài ra, Nghị quyết này còn hướng dẫn trường hợp đình chỉ vụ án, miễn chấp hành hình phạt trong một số trường hợp.
Các bạn có thể tham khảo thêm tại Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự 2015.