Liệu có được lấy họ của cha để đặt cho con khi cha mẹ chưa đăng ký kết hôn?

Chủ đề   RSS   
  • #598240 31/01/2023

    danluan123
    Top 50
    Male
    Lớp 6

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:14/07/2020
    Tổng số bài viết (1142)
    Số điểm: 8320
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 93 lần


    Liệu có được lấy họ của cha để đặt cho con khi cha mẹ chưa đăng ký kết hôn?

    Có thể thấy, mỗi cá nhân sinh ra đều có một cái tên nhằm phân biệt người này với người khác và dưới góc độ cơ quan nhà nước trong công tác quản lý thông tin của từng cá nhân đó.

    Thông thường cha mẹ, sẽ thỏa thuận và đặt tên cho con của mình. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là khi hai người  chưa đăng ký kết hôn mà muốn con của mình theo họ cha thì liệu có được mặc dù là cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.

    Căn cứ Điều 26 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:

    Điều 26. Quyền có họ, tên

    1. Cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.

    2. Họ của cá nhân được xác định là họ của cha đẻ hoặc họ của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; nếu không có thỏa thuận thì họ của con được xác định theo tập quán. Trường hợp chưa xác định được cha đẻ thì họ của con được xác định theo họ của mẹ đẻ.

    Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của cha nuôi hoặc họ của mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo họ của người đó.

    Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì họ của trẻ em được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người có yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em, nếu trẻ em đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng.

    Cha đẻ, mẹ đẻ được quy định trong Bộ luật này là cha, mẹ được xác định dựa trên sự kiện sinh đẻ; người nhờ mang thai hộ với người được sinh ra từ việc mang thai hộ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

    3. Việc đặt tên bị hạn chế trong trường hợp xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.

    Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ.

    4. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình.

    5. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

    Do đó, căn cứ theo quy định hiện hành, họ của con được xác định theo cha đẻ hoặc mẹ đẻ, việc xác định cha đẻ, mẹ đẻ sẽ dựa trên sự kiện sinh đẻ. Chính vì vậy, nếu cha và mẹ chưa tiến hành đăng ký kết hôn thì vẫn có thể lấy họ của người cha đặt cho đứa bé.

     

     
    172 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận