Khái quát về lịch sử quyền im lặng

Chủ đề   RSS   
  • #581580 23/03/2022

    Khái quát về lịch sử quyền im lặng

    Quyền im lặng trong thế kỉ XVI-XVIII

    Quyền im lặng thực chất là nguyên tắc suy đoán vô tội có nguồn gốc từ Luật La Mã cổ đại cách đây trên 15 thế kỷ, song đã gần như bị tê liệt trong các tòa án vô nhân suốt thời trung cổ và chỉ được phục hưng kể từ cuộc cách mạng tư sản ở Âu Châu.Thuật ngữ Latin nemo tenetur se ipsum accusare (‘no man is bound to accuse himself’) không ai tự buộc tội chính mình xuất phát từ thế kỉ 16 khi các công dân bất đồng chính kiến với chính quyền Vương Quốc Anh bị bắt và phải ra Tòa. Vì vậy, trong khoa học pháp lí đã tồn tại quan điểm cho rằng quyền im lặng có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại, xuất phát từ nguyên tắc của người La Mã và được sử dụng trong lĩnh vực dân sự, thương mại khi ở đó người ta khẳng định trách nhiệm chứng minh thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định. A khẳng định B nợ mình thì A phải chứng minh. Ở thời kì đó, chế định này nhiều khi đã bị lợi dụng để sử dụng như là công cụ bảo vệ cho giai cấp thống trị hơn là quyền cho bất kì cá nhân nào bị buộc tội. Chế định này đảm bảo rằng chỉ khi có lí do hợp lí để nghi ngờ ai đó vi phạm pháp luật thì người đó mới có thể bị buộc trả lời những câu hỏi buộc tội. Tất cả những người bị bắt trước khi ra hầu tòa bị buộc phải thừa nhận tội trạng “Ex officio oath” và thề khai đúng sự thật, hầu hết các vụ việc xảy ra tại các Tòa án tôn giáo.

    Tòa án tôn giáo được thành lập ở Anh cuối thế kỉ 17, với nguyên tắc lời thề vinh dự trong xét xử đã hình thành một học thuyết “Tam tội bất kiến”-the cruel trilemma có nghĩa người bị bắt phải chọn một trong ba tội danh mình đã thực hiện, không có sự lựa chọn bào chữa khác. Trong vụ kiện này thẩm phán Edward Coke đã ra phán quyết Tòa án ủng hộ quyền im lặng không phải đưa ra lời thề nhận tội.

    Thật ra từ thời La Mã cổ có nhiều người khẳng định trách nhiệm chứng minh là thuộc về bên tố cáo chứ hoàn toàn không phải do bên phủ định. Những tư tưởng này cũng ảnh hưởng đến tố tụng dân sự sau này. Đây là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội sau này.

    Một chính khách người Anh John Lilburne đã đứng lên chống đối các thủ tục tuyên thệ buộc tội, người có biệt dạnh “Freeborn John”. Ông bị bắt sau khi xuất bản cuốn sách “An Impeachment of High Treason”, trong vụ kiện xét xử ông từ chối ra đưa ra lời thề nhận tội. Tòa án đã phán ông vô tội.

    Có quan điểm lại cho rằng nước Anh là quốc gia đầu tiên đưa ra khái niệm về quyền được im lặng. Ở Anh, xuất phát từ quan điểm lịch sử về sự cân bằng quyền lực giữa nhà  nước và quyền công dân , ngay từ thế kỉ XVI đã tồn tại nguyên tắc về quyền im lặng: “không ai bị ràng buộc để buộc tội mình, bất kì hình thức hoặc toà án nào”, bị cáo mới có được quyền hữu hiệu để từ chối trả lời những buộc tội đối với mình. Có thể nói, những người bào chữa đã góp công lớn trong việc “khai sinh” ra đặc quyền chống lại sự tự  buộc tội và quyền im lặng, cũng như tạo nên cuộc cách mạng về tố tụng mà kết quả của nó vẫn tồn tại trong hệ thống tư pháp ở Anh. Mặc dù không có căn cứ rõ rằng nhưng ngày nay, tại Vương quốc Anh và các nước thuộc dòng họ pháp luật Anh, quyền im lặng vẫn được gìn giữ. Quyền im lặng được coi là một trong những biện pháp quan trọng nhất bảo vệ người dân trước các hành động tuỳ tiện của nhà nước.

     
    308 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #581594   24/03/2022

    anhhong58
    anhhong58
    Top 150
    Lớp 4

    Vietnam
    Tham gia:16/03/2022
    Tổng số bài viết (496)
    Số điểm: 5096
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 51 lần


    Khái quát về lịch sử quyền im lặng

    “Quyền im lặng” trong pháp luật Việt Nam

    Đối với “quyền im lặng” của người bị buộc tội thì pháp luật TTHS của Việt Nam trước kia cũng như trong Bộ luật TTHS năm 2015 hiện hành không quy định một cách trực tiếp, nguyên nghĩa mà quy định một cách gián tiếp thể hiện tinh thần và nội dung của quyền này.

    Cụ thể, các Bộ luật TTHS trước đây đều quy định “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai”. Bộ luật TTHS năm 2015 đã chính thức ghi nhận “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.

     
    Báo quản trị |