Ngoài trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do tình thế cấp thiết, Bộ luật hình sự 2015 còn quy định một số trường hợp cũng được loại trừ trách nhiệm hinh sự như:
- Sự kiện bất ngờ (Điều 20 Bộ luật hình sự 2015):
Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật hình sự 2015)
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ở trường hợp này, để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự cần phải có kết luận giám định pháp y tâm thần của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại Thông tư 18/2015/TT-BYT`
- Phòng vệ chính đáng (Điều 22 Bộ luật hình sự 2015)
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
- Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24 Bộ luật hình sự 2015)
Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
- Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25 Bộ luật hình sự 2015)
Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26 Bộ luật hình sự 2015)
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này.
Đối với các trường hợp quy định tại Điều 22, 24 nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết trong khi bắt giữ người phạm tội thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với phạm vi vượt quá đó.