Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS năm 2015 về tội chứa mại dâm thì:
1.Người nào chứa mại dâm thì bị phạt tiền từ 1 năm đến 5 năm
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 5 năm đến 10 năm tù:
a)...
c) Chứa mại dâm 2 lần trở lên
d) Chứa mại dâm 4 người trở lên
Như vậy, so với Điều 254 BLHS năm 1999 (không quy định) thì tại Điều 327 BLHS năm 2015 đã có thêm quy định về tội chứa mại dâm với tình tiết “Chứa mại dâm 4 người trở lên”; việc bổ sung thêm quy định này là cần thiết, phù hợp đã đảm bảo sự công bằng so với quy định về tội môi giới mại dâm (tội Môi giới mại dâm theo BLHS năm 1999 có quy định đối với nhiều người và BLHS năm 2015 nêu rõ “đối với 2 người trở lên”)
Tuy nhiên, cách hiểu về “Chứa mại dâm 4 người trở lên" hiện có những quan điểm khác nhau khiến cho việc xử lý tội chứa mại dâm có tình tiết “Chứa mại dâm 4 người trở lên” không thống nhất, dẫn tới nhiều vụ án có nội dung tương tự nhau nhưng định khung hình phạt khác nhau nên mức hình phạt khác nhau rất lớn.
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Chứa mại dâm 4 người trở lên” là cùng một lúc chứa 2 đôi mua bán dâm trở lên, 4 người ở đây là người mua dâm và người bán dâm. Tức là 1 người chỉ cần chứa 2 người bán dâm cho 2 người mua dâm cùng lúc trở lên là phạm vào điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS năm 2015; hoặc 1 người bán dâm cho 3 người cũng là 4 người, nhưng không thể thực hiện mua bán dâm cùng một lần mà phải thực hiện nhiều lần khác nhau, nên trường hợp này cần tính là phạm tội nhiều lần theo điểm c khoản 2 Điều 327 BLHS năm 2015 với khung hình phạt tù từ 5 năm đến 10 năm.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Theo từ điển tiếng Việt thì “mại” là bán nên chứa mại dâm là chứa bán dâm, như vậy tình tiết chứa mại dâm 4 người trở lên quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS năm 2015 được hiểu là đối với người bán dâm. Với cách hiểu này thì “Chứa mại dâm 4 người trở lên” là chứa 4 người bán dâm trở lên và không tính người mua dâm. Tức là nếu chứa 2 hoặc 3 người bán dâm cùng lúc cho những người mua dâm thì không tính là “Chứa mại dâm 4 người trở lên”, nếu không có các tình tiết định khung khác thì chỉ phạm tội “chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 BLHS năm 2015 với khung hình phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.
Theo quan điểm của tác giả, sau khi nghiên cứu phân tích, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật và kết quả thực tiễn thấy cần phải hiểu như quan điểm thứ nhất mới đảm bảo đúng quy định của pháp luật và sự công bằng vì theo quy định tại mục 3 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm thì:
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.
Như vậy, theo quy định của Pháp lệnh phòng chống mại dâm (là văn bản quy phạm pháp luật) thì mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm; quy định này là phù hợp với thực tiễn.
Không thể lấy từ điển tiếng Việt (là tài liệu tham khảo) mà hiểu mại dâm chỉ là bán dâm, và chứa mại dâm 4 người là chứa bán dâm 4 người, cách hiểu này không đúng với quy định pháp luật tạo ra sự bất hợp lý và không công bằng trong áp dụng pháp luật.
Vì vậy, chứa mại dâm 4 người trở lên cần phải hiểu là chứa 4 người mua bán dâm cùng lúc trở lên; cách hiểu này phù hợp và tạo sự công bằng đối với quy định của tội môi giới mại dâm có tình tiết định khung theo điểm đ khoản 2 Điều 328 BLHS năm 2015 là đối với 2 người trở lên. Tức là là môi giới cho 2 người để mua bán dâm với người khác; 2 người này hiểu là 2 người mua dâm hoặc 2 người bán dâm. Chúng ta cùng xem xét hai ví dụ sau:
Ví dụ 1: A là chủ quán cà phê nhận tiền của 2 người mua dâm và bố trí cho 2 người đó mua bán dâm với 2 nữ tiếp viên của quán tại 2 phòng của quán cà phê do mình quản lý. Khi cả 4 người đang mua bán dâm thì bị bắt quả tang.
Trường hợp này, theo quan điểm thứ nhất thì A phạm tội chứa mại dâm với tình tiết định khung “Chứa mại dâm 4 người trở lên” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS năm 2015. Nhưng theo quan điểm thứ hai thì A phạm tội chứa mại dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLHS năm 2015.
Ví dụ 2: A là chủ quán cà phê nhận tiền của 2 người mua dâm và gọi 2 nữ tiếp viên của quán, bảo 2 nữ tiếp viên đi bán dâm cho 2 người mua dâm tại nơi khác (không phải nơi do A quản lý).
Trường hợp này theo quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai thì đều thống nhất A phạm tội Môi giới mại dâm với tình tiết định khung “đối với 2 người trở lên” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 BLHS năm 2015.
Nếu hiểu theo quan điểm thứ hai thì trong ví dụ 1, A chỉ phải chịu khoản 1 Điều 327 BLHS năm 2015, còn ở ví dụ 2 thì A phải chịu khoản 2 Điều 328 BLHS năm 2015 ở mức khung hình phạt cao hơn. Trong khi rõ ràng hành vi của A ở ví dụ 1 nguy hiểm hơn hành vi của A ở ví dụ 2. Chính vì vậy cách hiểu của quan điểm thứ hai là không phù hợp.
Từ những phân tích nêu trên, để đảm bảo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, tránh cách hiểu khác nhau tạo ra việc xử lý không thống nhất và việc giải quyết các vụ án không đảm bảo sự công bằng; Hội đồng thẩm phán TAND tối cao cần sớm có Nghị quyết hướng dẫn cụ thể về tình tiết “Chứa mại dâm 4 người trở lên” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 BLHS năm 2015.
nguồn: Kiemsat.vn