Có thể hiểu Giới hạn xét xử là phạm vi giới hạn, khuôn khổ nhất định mà Toà án trong quá trình xét xử, ra phán quyết không thể hoặc không được vượt qua.
Quy định giới hạn xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự có mục đích nhằm đảm bảo tính định hướng cho hoạt động tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ thể tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử, đặc biệt là xác định giới hạn cho Toà án trong việc thực hiện quyền hạn của mình trong quá trình giải quyết vụ án; tránh tình trạng lạm quyền, vượt quyền, trái quyền gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể tham gia tố tụng. Mặt khác, quy định về giới hạn xét xử còn nhằm bảo đảm cho bị cáo và người bào chữa có thể chủ động chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ để tranh tụng với quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát.
Chúng ta thấy rằng “Giới hạn của việc xét xử” không phải chỉ đến Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 mới được đề cập mà trong các BLTTHS trước đây cũng đã có quy định về vấn đề này. Cụ thể, theo Điều 196 BLTTHS năm 2003 quy định như sau:
Điều 196. Giới hạn của việc xét xử
Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
|
Theo đó, với nội dung quy định trên thì có nghĩa Tòa án:
+ KHÔNG được xét xử những người và những hành vi không bị Viện kiểm sát truy tố;
+ KHÔNG được xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Thực tiễn áp dụng quy định trên đã dẫn đến một số khó khăn cho việc xét xử của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát truy tố tội danh nhẹ hơn so với hành vi phạm tội của bị cáo nhưng Hội đồng xét xử cũng không được quyền tuyên án bị cáo tội danh nặng hơn so với tội danh mà cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, thực tế đã xảy ra trường hợp Tòa án thấy cần truy tố thêm người, thêm tội hoặc xét xử theo tội danh khác nặng hơn thì buộc phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát tự mình bổ sung hoặc trả hồ sơ để cơ quan điều tra điều tra bổ sung, thay đổi cáo trạng.Vấn đề đặt ra là nếu Viện kiểm sát không đồng tình, không thống nhất với đề nghị của Tòa án thì Tòa án vẫn phải xét xử theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Từ đó dẫn đến tình tranh đã nhiều bản án sơ thẩm bị hủy bởi Tòa án xét xử chưa đúng mức độ tội danh (đúng ra phải xét xử về một tội danh nặng hơn).
Và để khắc phục bất cập trên thì tại Điều 298 BLTTHS 2015 đã quy định mở rộng giới hạn xét xử cho Tòa án, cụ thể như sau:
Điều 298. Giới hạn của việc xét xử
1. Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
3. Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
|
Với quy định mới trên thì giới hạn xét xử của Tòa án theo khoản 1 và khoản 2 Điều 298 BLTTHS 2015 về cơ bản vẫn giữ nguyên nội dung như Điều 196 BLTTHS 2003. Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là ở chỗ khoản 1 Điều 298 BLTTHS 2015 đã sửa cụm từ “Tòa án chỉ xét xử …” trong quy định của BLTTHS 2003 thành “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Điều chúng ta cần phải lưu tâm đó là mục đích của việc bỏ từ “chỉ” là nhằm mở rộng giới hạn xét xử của Tòa án với trường hợp mới được quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS 2015"Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó".
Cụ thể, với quy định mới trên chúng ra có thể hiểu rằng: Khi xét thấy cần thiết thì Tòa án
+ĐƯỢC xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố.
+KHÔNG được xét xử những người và những hành vi không bị Viện kiểm sát truy tố;
Kết luận: BLTTHS 2015 đã phục được những vướng mắc, bất cập trong quy định của BLTTHS 2003 bằng việc mở rộng hơn về giới hạn xét xử của Tòa án, có nghĩa là Tòa án có thể xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát đã truy tố nhưng với điều kiện Tòa án phải trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại, nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó. Còn nếu… sau khi xét xử sơ thẩm mà Viện kiểm sát vẫn không đồng ý với tội danh nặng hơn mà Tòa án đã xét xử thì có quyền kháng nghị thủ tục phúc thẩm đúng theo quy định của BLTTHS 2015.
Cập nhật bởi lanbkd ngày 07/06/2018 02:23:42 CH
Cập nhật bởi lanbkd ngày 07/06/2018 02:22:45 CH