Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là gì? Pháp luật cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nào? Điều kiện miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm là gì?
(1) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là gì?
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2018, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi thỏa thuận giữa các bên dưới mọi hình thức gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Theo đó, những thỏa thuận này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau và có thể ảnh hưởng đến giá cả, thị trường, cũng như sự phát triển của doanh nghiệp khác.
Tại Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 có quy định 11 hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm:
1- Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
2- Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
3- Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
4- Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
5- Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh.
6- Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận.
7- Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.
8- Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
9- Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận.
10- Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận.
11- Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Những thỏa thuận này thường bị cấm do có thể gây hại cho sự cạnh tranh và quyền lợi của người tiêu dùng.
(2) Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nào bị cấm?
Theo quy định tại Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm bao gồm:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan quy định tại các khoản 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
Việc cấm các bên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này nhằm bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và khuyến khích sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
(3) Điều kiện miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm là gì?
Theo đó, không phải lúc nào các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cũng bị pháp luật cấm thực hiện.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Cạnh tranh 2018, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 Luật Cạnh tranh 2018 bị cấm theo quy định tại Điều 12 Luật Cạnh tranh 2018 sẽ được miễn trừ có thời hạn nếu có lợi cho người tiêu dùng và đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
- Tác động thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ;
- Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế;
- Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
- Thống nhất các điều kiện thực hiện hợp đồng, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá.
Bên cạnh đó, thỏa thuận lao động, thỏa thuận hợp tác trong các ngành, lĩnh vực đặc thù được thực hiện theo quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của luật đó. Điều này thể hiện sự linh hoạt và khả năng thích ứng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Như vậy, pháp luật không chỉ tập trung vào việc cấm các hành vi hạn chế cạnh tranh mà còn tạo điều kiện cho những thỏa thuận có lợi, góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.