Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh thanh toán tiền hợp đồng bốc xếp ...

Chủ đề   RSS   
  • #263523 23/05/2013

    phamthanhhuu
    Top 25
    Male
    Dân Luật bậc 1


    Tham gia:20/07/2012
    Tổng số bài viết (3536)
    Số điểm: 109378
    Cảm ơn: 401
    Được cảm ơn 4353 lần


    Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh thanh toán tiền hợp đồng bốc xếp ...

    Số hiệu

    328/2005/KDTM-ST

    Tiêu đề

    Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh thanh toán tiền hợp đồng bốc xếp hàng hóa

    Ngày ban hành

    08/11/2005

    Cấp xét sử

    Sơ thẩm

    Lĩnh vực

    Kinh tế

     

    Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai nhận của các bên đương sự có cơ sở xác định giữa Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam và Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh có ký hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ vào ngày 16-5-2003. Hợp đồng trên đã được đại diện có thẩm quyền của hai bên ký kết phù hợp với Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các bên nên có giá trị pháp lý ràng buộc các bên thực hiện hợp đồng.

    Về ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng hợp đồng bốc xếp hàng hóa do Giám đốc Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh ký nhưng không được Giám dốc Công ty ủy quyền để cho rằng hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ là không có căn cứ. Vì tại điểm b, khoản 2, mục 2 trong phần I của Nghị quyết số04/2003/NQ-HĐTP ngày 27-5-2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế quy định: “Hợp đồng kinh kế không bị coi là vô hiệu toàn bộ, nếu người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, người mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế đó chấp thuận… Hợp đồng kinh kế được coi là người có thẩm quyền đã biết mà không phản đối...Người có thẩm quyền thông qua các chứng từ, tài liệu về kế toán, thống kê biết được hợp đồng kinh kế đã được ký kết và đang thực hiện (đã ký trên hóa đơn, phiếu xuất kho, các khoản thu chi của việc thực hiện hợp đồng kinh tế hoặc trên sổ sách kế toán của pháp nhân…)


    Bản án số :328/2005/KDTM-ST Ngày 08-11-2005

    V/v tranh chấp hợp đồng bốc xếp

    Trong ngày 08 tháng 11 năm 2005 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 135/KTST ngày 23 tháng 5 năm 2005 về tranh chấp hợp đồng bốc xếp theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số640/2005/QĐXX-ST ngày 30 tháng 09 năm 2005 giữa các đương sự:

    Nguyên đơn: Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam

    Địa chỉ: Cảng Bến Nghé, phường Tân Thuận Đông, quận 7, TPHCM

    Có bà Thái Thị Mai Anh, CMND số 024240738, cấp ngày 01-3-2004 tại CA. TPHCM. Cư ngụ tại 66/5Phổ Quang, phường 2, quận Phú Nhuận, TP. HCM, là cán bộ kinh doanh Công ty làm đại diện ủy quyền theo giấy ủy quyền đề ngày 13-6-2005 của Giám đốc công ty (Có mặt)

    Có Luật sư Nguyễn Văn Hậu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

    Bị đơn: Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng nay là Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng.

    Địa chỉ liên lạc tại TPHCM: 91B Lê Lai, quận 1, TPHCM

    Đại diện: Bà: Nguyễn Thị Thu Duyên, CMND số 271427218, cấp ngày 22-01-1997 tại CA. Tỉnh Đồng Nai. Cư ngụ tại: 49A Bùi Đình Túy, phường 24, quận Bình Thạnh, TP. HCM, Nhân viên công ty làm đại diện ủy quyền, theo số ủy quyền số98/UQ-VT ngày 14 tháng 10 năm 2005 của Giám đốc Công ty, (có mặt).

    Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH Ngọc Quang

    Địa chỉ: Đường số 4, khu công nghiệp Đồng An, huyện Thuận An, Bình Dương (vắng mặt).

    NHẬN THẤY

    Trong đơn khởi kiện ngày 19-4-2005 của Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam thì ngày 16-5-2003 Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam đã ký với Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ, với nội dung:

    Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam có nhận thực hiện dịch vụ bốc xếp, bốc dỡ và đóng bao hàng hóa (tàu Diamond) cho Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh. Thực hiện hợp đồng trên, sau khi hoàn thành công việc Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam đã xuất 02 hóa đơn GTGT số 6182, 6183 ngày 07-7-2003 yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng thanh toán số tiền dịch vụ là 79.843.080 đồng. Do có hao hụt hàng hóa trong qúa trình bốc xếp nên Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam đồng ý bồi thường cho Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng số tiền là 18.530.100 đồng. Như vậy tổng số tiền mà Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng còn nợ Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam là 61.312.980 đồng. Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam đã nhiều lần nhắc nhỡ, yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng thanh toán số tiền trên nhưng phía Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng vẫn không thanh toán. Do đó, Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam làm đơn khởi kiện yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng thanh toán số nợ là 61.312.980 đồng.

    Ý kiến của Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng: Ngày 21-3-2003 Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh có ký hợp đồng mua bán bột mì với Công ty TNHH Ngọc Quang với nội dung: Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh bán cho Công ty TNHH Ngọc Quang 5.000 tấn lúa mì trị giá 625.200USD. Đơn giá này chưa bao gồm thuê XNK, phí và chi phí giao nhận, bốc xếp. Do có mối quan hệ với Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam, nên Chúng tôi có ký hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ vào ngày 16-5-2003 với Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam. để nhờ họ bốc xếp lô hàng với danh nghĩa là Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh nhưng việc thanh toán tiền là do Công ty TNHH Ngọc Quang thanh toán. Do đó, chúng tôi đề nghị Tòa án triệu tập Công ty TNHH Ngọc Quang tham dự phiên Tòa với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án.

    Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức cho các bên đương sự hòa giải để giải quyết tranh chấp trên, nhưng do các bên không thống nhất với nhau về cách giải quyết tranh chấp bằng hòa giải nên Tòa án đã lập biên bản hòa giải không thành và đưa vụ án ra xét xử theo luật định.

    Tại phiên Tòa ngày hôm nay:

    Nguyên đơn (Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam) trình bày: Chúng tôi yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh nay là Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẳng phải trả cho chúng tôi số nợ của hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ ký ngày 16-5-2003 và theo 02 hóa đơn GTGT số 6812 và 6813 là 79.843.080 đồng.

    Bị đơn (Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của của Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh) trình bày: Chúng tôi không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đòi trả số tiền 79.843.080 đồng theo hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ vào ngày 16-5-2003 và và theo 02 hóa đơn GTGT số 6812 và 6813. Vì Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng không nợ Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, chúng tôi luôn đề nghị Tòa án đưa Công ty TNHH Ngọc Quang tham gia tố tụng tại phiên Tòa với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và tiếp đến chúng tôi đã có đơn phản kiện yêu cầu Công ty TNHH Ngọc Quang phải trả tiền bốc xếp nói trên cho chúng tôi để chúng tôi trả cho Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam. Vì chính Công ty TNHH Ngọc Quang mới là đơn vị nợ của Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam thể hiện qua hai văn bản ngày 20-9-2004 và 21-9-2004 của Công ty TNHH Ngọc Quang gởi cho Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam.

    Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ ký ngày 16-5-2003 bị vô hiệu toàn bộ. Vì hợp đồng nói trên do Giám đốc Chi nhánh Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng tại TP. Hồ Chí Minh ký kết nhưng không được giám đốc Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng ủy quyền. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật.

    Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Chi nhánh Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng tại TP. Hồ Chí Minh khi ký kết đã được Giám đốc Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng ủy quyền vì trong những năm qua, chúng tôi ký rất nhiều hợp đồng với Chi nhánh Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng tại TP. Hồ Chí Minh. Các hợp đồng khác đều được Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẳng thanh toán đầy đủ. Nay đại diện của Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẳng cho rằng Giám đốc Chi nhánh Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẳng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh ký kết hợp đồng không được giám đốc Công ty ủy quyền để cho rằng bị vô hiệu là không có cơ sở. Khi Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng chuyển đổi thành Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng thì đơn vị kế thừa phải có nghĩa vụ trả nợ của Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng.

    XÉT THẤY

    Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

    Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Ngọc Quang tham gia phiên Tòa với tư cách là bị đơn đến lần thứ hai nhưng đại diện của Công ty TNHH Ngọc Quang vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 điều 201 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Hội đồng xét xử quyết định việc xét xử vẫn được tiến hành với sự vắng mặt của Công ty TNHH Ngọc Quang.

    Về thời hiệu khởi kiện: Xét hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ vào ngày 16-5-2003 giữa hai bên không quy định lực của hợp đồng. Tuy nhiên, sau khi thực hiện xong nghĩa vụ trong hợp đồng nguyên đơn là Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam đã xuất 02 hóa đơn GTGT số 6182, 6183 ngày 07-7-2003 yêu cầu Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh thanh toán số tiền dịch vụ là 79.843.080 đồng.

    Do Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh không trả phí bốc xếp và qua thương lượng giải quyết tranh chấp không được nên ngày 19-4-2005 Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam đã làm đơn khởi kiện. Căn cứ vào khoản 2 điều 241 và điều 242 Luật Thương mại và căn cứ vào khoản 3, điều 159 Bộ Luật tố tụng dân sự thì đơn khởi kiện của Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam nằm trong thời hiệu khởi kiện.

    Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai nhận của các bên đương sự có cơ sở xác định giữa Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam và Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh có ký hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ vào ngày 16-5-2003. Hợp đồng trên đã được đại diện có thẩm quyền của hai bên ký kết phù hợp với Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các bên nên có giá trị pháp lý ràng buộc các bên thực hiện hợp đồng.

    Về ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ vào ngày 16-5-2003 do Giám đốc Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh ký nhưng không được Giám dốc Công ty ủy quyền để cho rằng hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ là không có căn cứ. Vì tại điểm b, khoản 2, mục 2 trong phần I của Nghị quyết số04/2003/NQ-HĐTP ngày 27-5-2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án kinh tế quy định: “Hợp đồng kinh kế không bị coi là vô hiệu toàn bộ, nếu người ký kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, người mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế đó chấp thuận… Hợp đồng kinh kế được coi là người có thẩm quyền đã biết mà không phản đối khi thuộc một trong các trường hợp sau đây :

    Người có thẩm quyền thông qua các chứng từ, tài liệu về kế toán, thống kê biết được hợp đồng kinh kế đã được ký kết và đang thực hiện (đã ký trên hóa đơn, phiếu xuất kho, các khoản thu chi của việc thực hiện hợp đồng kinh tế hoặc trên sổ sách kế toán của pháp nhân…)”;

    Xét hợp đồng bốc xếp hàng hóa số VPA – 030571/NQ vào ngày 16-5-2003 do Giám đốc Chi nhánh Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẳng tại TP. Hồ Chí Minh ký kết đã được giám đốc Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẳng biết. Cụ thể Giám đốc Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẳng đã ủy quyền cho giám đốc Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẳng, chi nhánh tại TP. Hồ Chí Minh ký kết các hợp đồng mua bán lúa mì với các doanh nghiệp khác tại phía Nam (theo lời khai của đại diện Công ty cổ phần Vật tư tổng hợp Đà Nằng tại phiên Tòa), mà khi mua bán lúa mì thì phải ký kết hợp đồng bốc xếp. Mặt khác, khi thực hiện xong hợp đồng bốc xếp, Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam đã xuất hai hóa đơn GTGT số 6812 và 6813 ngày 07-07-2003 cho Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, sau khi nhận hóa đơn Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng không phản đối nghĩa vụ trả tiền của mình.

    Xét việc Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam yêu cầu Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng phải trả cho Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam số tiền phí bốc xếp hàng hóa là 79.843.080 đồng. Hội đồng xét xử có nhận định như sau:

    Xét tại trong việc thực hiện hợp đồng bốc xếp trên, sau khi thực hiện xong hợp đồng bốc xếp hàng hóa, nguyên đơn đã xuất cho bị đơn là Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng 02 hóa đơn GTGT số 6182, 6183 ngày 07-7-2003 yêu cầu Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng thanh toán số tiền dịch vụ là 79.843.080 đồng. Do Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng đã nhận hóa đơn và không phản đối và không thanh toán tiền nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn là Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng trả tiền dịch vụ là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn là Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam số tiền là 79.843.080 đồng.

    Về ý kiến của đại diện Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng cho rằng Công ty TNHH Ngọc Quang phải là người chịu trách nhiệm trả phí bốc xếp trên. Vì Công ty vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đã bán cho Công ty TNHH Ngọc Quang lô bột mì trên. Hội đồng xét xử có nhận định như sau:

    Về quan hệ hợp đồng kinh tế: Tại điều 3 của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Hợp đồng kinh tế được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái luật”. Do Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh ký hợp đồng bốc xếp hàng hóa với Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam và có phát sinh công nợ thì Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng có trách nhiệm trực tiếp giải quyết công nợ với Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam. Về các tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện hợp đồng mua bán lúa mì giữa Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng, Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh với Công ty TNHH Ngọc Quang thì các bên có trách nhiệm giải quyết với nhau. Nếu không giải quyết được thì các bên có thể khởi kiện bằng một vụ kiện khác.

    Về yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng đối với Công ty TNHH Ngọc Quang. Hội đồng xét xử có nhận định như sau:

    Xét yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng đối với Công ty TNHH Ngọc Quang về việc đòi Công ty TNHH Ngọc Quang phải trả tiền một lô hàng lúa mì theo hợp kinh tế số 2103/HĐCN không thuộc phạm vi giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng bốc xếp nên Tòa án không thông báo cho Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng đóng tạm ứng án phí để giải quyết trong vụ án này. Về tranh chấp phát sinh giữa Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng với Công ty TNHH Ngọc Quang (nếu có) có thể khởi kiện thành một vụ kiện khác.

    Về án phí, căn cứ vào khoản 2, điều 15 Nghị định 70/CP ngày 12-6-1997, Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng phải chịu án phí trên số tiền là 79.843.080 đồng. Tiền án phí là 3.992.000 đồng, nộp tại Thi hành án dân sự TP.HCM.

    Hoàn trả toàn bộ tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền số 004859 ngày 17-5-2005 của Phòng thi hành án TP.HCM cho Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam .

    Vì các lẽ trên;

    QUYẾT ĐỊNH

    - Căn cứ vào khoản 2, điều 201 của Bộ luật tố tụng dân sự;

    - Căn cứ vào thông tư liên tịch số 01/TTLTngày 19-6-1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản;

    - Căn cứ Nghị định số 70/CP ngày 12-6-1997 của Chính phủ quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

    1. Chấp nhậïn yêu cầu của Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam, buộc Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng phải trả cho Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam số tiền 79.843.080 đồng (Bảy mươi chín triệu tám trăm bốn mươi ba ngàn không trăm tám mươi đồng).

    2. Về án phí :

    a) Công ty cổ phần vật tư tổng hợp Đà Nẵng, phải chịu án phí là 3.992.000 đồng, nộp tại Thi hành án dân sự TP.HCM.

    b) Hoàn trả toàn bộ tạm ứng án phí là 1.532.825 đồng (Một triệu năm trăm ba mươi hai ngàn tám trăm hai mươi lăm đồng) theo biên lai thu tiền số 004859 ngày 17-5-2005 của Phòng thi hành án TP.HCM cho Công ty TNHH PCH Bulk Cargo Handling Việt Nam.

    Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, hoặc kể từ ngày có đơn xin thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hằng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án .

    3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, riêng đối với đương sự vắng mặt tại phiên Tòa (Công ty TNHH Ngọc Quang) thì thời hạn này được tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết, các bên đương sự có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao./.

     

    Cập nhật bởi phamthanhhuu ngày 23/05/2013 11:33:15 SA
     
    13020 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận